CUỘC SỐNG TRONG THỜI ĐẠI VÀNG – Chương 2: Cơ thể vật lý

0
287

Chương 2 – Cơ thể vật lý

 

Cơ thể là tầng thứ của nhận thức và khía cạnh của Bản Thể đầu tiên mà chúng ta sẽ xem xét. Nó là một phương tiện để liên lạc và để trải nghiệm vũ trụ vật chất. Cơ thể được điều khiển phần lớn bởi bộ não. Bạn có thể xem cơ thể giống như một tòa nhà, với bộ não là một hệ thống máy tính trung tâm được lắp đặt trong tòa nhà đó và các giác quan của cơ thể là thiết bị đầu vào và đầu ra.

Trong trạng thái hoạt động bình thường, cơ thể có khả năng tiếp nhận một mạng lưới các đầu vào về cảm giác. Thông tin từ nhiều tầng thứ nhận thức khác có thể được cảm nhận như những cảm giác vật lý. Mặc dù rõ ràng là cảm xúc được cảm nhận trong cơ thể, nhưng nhiều năng lượng tâm linh, trực giác và các năng lượng vi tế khác cũng được lọc qua đầu vào cảm giác của cơ thể. Ví dụ, kundalini, một trường năng lượng thuộc thể dĩ thái (etheric), có khả năng kích hoạt một số khía cạnh của hệ thần kinh dọc theo cột sống.

 

Cơ thể có sẵn một cơ chế sinh tồn và phản ứng bản năng để bảo vệ nó khỏi bị tổn hại. Nếu có điều gì đó cảm thấy khó chịu trong cơ thể, đó là dấu hiệu của sự mất cân bằng ở một tầng thứ nào đó. Sự mất cân bằng có thể là ở tầng thứ vật lý hoặc có thể ở một tầng thứ nhận thức khác, chẳng hạn như tinh thần hoặc thể vía (astral). Trong nhiều trường hợp, có thể có nhiều tầng thứ mất cân bằng cùng một lúc.

 

Để xác định nguồn gốc của các khu vực có vấn đề, bạn phải không chỉ hướng sự tập trung vào cơ thể đủ để lắng nghe và cảm nhận thông điệp của nó, mà bạn phải có khả năng thay đổi tầng thứ nhận thức cho đến khi tìm ra nguyên nhân của sự mất cân bằng. Có nhiều cách khác nhau để thực hiện việc này và sẽ được thảo luận ngay sau đây.

 

1.              Sức khỏe và Bệnh tật

 

Sức khỏe là trạng thái tự nhiên của cơ thể và xảy ra khi tất cả các tầng thứ hiện hữu của bạn đồng điệu với nhau. Khi trải qua bệnh tật hoặc cảm giác khó chịu trên cơ thể, một hoặc nhiều tầng thứ đang không đồng điệu. Để việc chữa lành có hiệu quả, vấn đề phải được khắc phục tại tầng thứ hoặc các tầng thứ mà vấn đề xảy ra. Một số vấn đề, chẳng hạn như chất gây ô nhiễm môi trường, tương đối dễ dàng để cô lập và khắc phục vì chúng chỉ xảy ra ở một tầng thứ. Tuy nhiên, hầu hết sự mất cân bằng xảy ra ở nhiều tầng thứ một cách đồng thời. Chữa lành những vấn đề này đòi hỏi phải đi đến tầng thứ sâu nhất của nguyên nhân và giải quyết trở ra đến các tầng thứ bên ngoài. Sau khi các lớp sâu nhất của sự mất cân bằng được chữa lành, các lớp khác thường nhanh chóng lành lại và một số tầng thứ bề ngoài có thể cần ít hoặc không cần điều chỉnh. Khi chúng ta khám phá từng tầng thứ của sự hiện hữu, tôi sẽ liệt kê một số sự mất cân bằng phổ biến được tìm thấy ở tầng thứ đó.

 

2.              Bộ não

 

LƯU Ý: Những trao đổi về bộ não sau đây được đưa vào trong phạm trù cơ thể vật lý. Tâm trí đề cập đến một khía cạnh phi vật chất của nhận thức và được xem là một cấp độ riêng rẽ về chính nó, sẽ được đề cập ở phần sau.

 

Các nhà khoa học thừa nhận họ chỉ biết khoảng 20% ​​các chức năng của não người. Trong số 20% này, chỉ có khoảng một nửa được sử dụng hàng ngày bởi những người bình thường. Nói cách khác, trung bình chúng ta sử dụng khoảng 10% công suất não bộ trong suốt cuộc đời.

 

Bộ não giống như một trung tâm truyền thông khổng lồ – một mạng máy tính sinh học tương tự như mạng máy tính máy tính lớn trong một tòa nhà văn phòng lớn. Giống như một máy tính điện tử, não bộ nhận, xử lý và truyền thông tin, thông tin này truyền đi theo các xung điện qua các vùng khác nhau của bộ não. Ai cũng biết rằng phần não trái chứa nhiều chức năng phân tích và logic, trong khi phần não phải dường như chứa các trung tâm trực giác, trí tưởng tượng và tâm linh.

 

Bộ não tiếp nhận thông tin từ nhiều nguồn trên nhiều tầng thứ và chiều kích. Nguồn rõ ràng nhất là từ cơ thể, qua hệ thần kinh. Những nguồn không quá rõ ràng bao gồm những ấn tượng nhận được từ trường điện từ xung quanh cơ thể (hào quang) và trường năng lượng xung quanh hầu như mọi vật thể trong vũ trụ. Thông tin (dưới dạng xung điện) truyền qua các đầu dây thần kinh được gọi là khớp thần kinh và được in dấu trong các thụ thể nhỏ gọi là tế bào thần kinh.

 

Đây là một mô tả được đơn giản hóa về bộ não. Nếu bạn muốn biết thêm nhiều chi tiết về bộ não, bàn có thể tìm đọc rất nhiều quyển sách về chủ đề này.

 

Sóng não

 

Bộ não phát ra sóng điện từ có thể được đo bằng thiết bị điện tử nhạy cảm (máy điện não đồ, v.v.). Sóng não được phân loại thành bốn chế độ (và đôi khi là năm nếu bạn bao gồm cả sóng gamma). Hình 2.1 cho thấy các dạng sóng mẫu cho bốn trạng thái phổ biến nhất:

 

Hình 2.1 – Sóng não

 

Loại Tần số (chu kỳ/giây) Dạng sóng Hoạt động
BETA 15-35 Trạng thái tỉnh táo
ALPHA 7-14 Mơ mộng, thiền định
THETA 4-7 Thôi miên sâu, hôn mê
DELTA 0-4 Mất nhận thức (bất tỉnh), ngủ sâu

 

  • Beta (15-35 chu kỳ mỗi giây)

 

Sóng Beta ngắn và nhanh và xảy ra khi bộ não bận xử lý, phân tích thông tin. Đây là trạng thái mà hầu hết chúng ta đều khi thực hiện các công việc hàng ngày của mình. Bất cứ điều gì yêu cầu tính toán, ra quyết định thường xuyên hoặc trò chuyện tích cực thường tạo ra sóng Beta. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng bộ não không hoạt động tối ưu trong trạng thái này. Một giáo viên yoga đã so sánh tình trạng này giống như “não khỉ”, luôn huyên thuyên và lãng phí rất nhiều năng lượng. Có thể cần một lượng sóng Beta nhất định, nhưng quá nhiều sóng Beta có thể tương tự như việc bạn quay bánh xe trong bùn dày. Bạn sẽ không đi được xa lắm và có thể tự đào hố chôn mình. Lo lắng và căng thẳng là những triệu chứng của hoạt động có quá nhiều sóng Beta.

 

  • Alpha (7-14 chu kỳ mỗi giây)

 

Sóng Alpha chậm hơn nhiều so với sóng Beta, nhưng có biên độ lớn hơn. Điều này có nghĩa là các dạng suy nghĩ được tạo ra trong trạng thái Alpha mạnh hơn và thường chứa nhiều năng lượng hơn, mặc dù chậm hơn. Sóng Alpha xảy ra trong thời gian sơ thiền, mơ mộng, lặp đi lặp lại các nhiệm vụ trong bị thôi miên hoặc ngủ nhẹ. Nhiều giai đoạn mơ trong khi ngủ tạo ra sóng Alpha. Như bạn thấy trong Hình 2.2, những giấc mơ dễ nhớ nhất xảy ra ngay trước khi thức dậy, khi đang ở trạng thái Alpha.

 

Nhiều người có thể chủ động chuyển từ trạng thái Beta sang Alpha chỉ bằng cách tự kỷ ám thị, thôi miên hoặc thực hành thiền định (Xem Hình 2.3). Một số người hoạt động gần như liên tục trong trạng thái Alpha. Trong công việc, những người này có xu hướng hoàn thành nhiều việc hơn đồng nghiệp của họ làm việc trong trạng thái Beta mặc dù họ thư giãn hơn. Người ta đã báo cáo rằng một người làm việc bảy giờ mỗi ngày và ngồi thiền trong một giờ sẽ đạt được thành tựu nhiều hơn một người làm việc tám giờ một ngày và không thiền định. Nhiều đột phá sáng tạo xảy ra trong trạng thái Alpha. Điều này có thể giải thích tại sao các nhà phát minh vĩ đại thường nghiền ngẫm một vấn đề không ngừng trong nhiều ngày, và sau đó câu trả lời đến trong giây phút nghỉ ngơi hoặc trong giấc mơ.

 

  • Theta (4-7 chu kỳ mỗi giây)

 

Sóng Theta rất chậm với biên độ lớn. Giống như Alpha, mọi người có thể rất sáng tạo trong trạng thái Theta; tuy nhiên, hầu hết mọi người không thể tỉnh táo trong trạng thái này trừ khi họ đã tự luyện tập qua thôi miên (Xem Hình 2.4). Sóng Theta được tạo ra trong quá trình thôi miên sâu và pha đầu của chu kỳ ngủ (Xem Hình 2.2). Chúng cũng có thể được tạo ra bởi một số loại thuốc (Xem Hình 2.5). Giấc mơ Theta thường khó nhớ hơn giấc mơ Alpha, nhưng có thể sáng tạo hơn hoặc thậm chí còn hơn thế nữa. Những người có thể tạo ra sóng Theta trong khi tỉnh táo thường có khả năng kiểm soát phi thường đối với các chức năng cơ thể mà bình thường hoạt động không tự chủ [như nhịp tim], và có thể tĩnh lặng tâm trí để nghe một tiếng thì thầm. Một số người đã báo cáo rằng họ có được trạng thái thư giãn sau 30 phút ở trạng thái Theta tương tự như là sau khi ngủ 8 tiếng.

 

  • Delta (0-4 chu kỳ mỗi giây)

 

Sóng Delta là hình thức hoạt động chậm nhất của não và thường chỉ xảy ra khi ngủ sâu và bất tỉnh. Tôi đã nghe báo cáo về việc mọi người có thể tạo ra sóng Delta trong khi tỉnh táo và có nhận biết, nhưng điều này rất hiếm. Rõ ràng, một số kênh xuất thần có thể đi vào trạng thái Delta trong khi một năng lượng hoặc thực thể khác đang sử dụng cơ thể họ. Những phương tiện xuất thần này thường không thể nhớ lại trải nghiệm của họ khi họ thoát ra khỏi trạng thái thôi miên.

 

Hình 2.2 – Chu kỳ ngủ bình thường

Hình 2.3 – Thiền hoặc Thư giãn sâu

Hình 2.4 – Thôi miên

Hình 2.5 – Do thuốc gây ra

Độ lớn của bộ não

 

Bộ não là vật thể phức tạp nhất mà con người biết đến. Để cung cấp cho bạn ý tưởng về mức độ phức tạp, hãy xem xét những điều sau:

 

  • Trung bình có khoảng 10 tỷ nơ ron thần kinh (tế bào não) trong một bộ não – tức 10.000.000.000.

 

  • Có khoảng 10^33 (decillion) xynáp thần kinh (đường dẫn giữa các nơ-ron) – tức 1.000.000.000.000.000.000.000.000.000.000.000.000.000

 

  • Số lượng các con đường có thể có mà thông tin có thể truyền đi trong một bộ não con người là một con số quá lớn, nó chỉ có thể được viết ở dưới dạng logarit là 10 log 10 đến lũy thừa 98. Nếu chúng ta in con số này ra bằng cách sử dụng phông chữ 12 pt, như chúng ta đã làm đối với số lượng tế bào thần kinh và điểm khớp nối thần kinh, các số 0 sau số “1” sẽ trải dài nhiều vòng quanh thế giới. Nếu bạn viết số này ở tốc độ viết bình thường của một người lớn, bạn sẽ mất khoảng 250.000 năm để hoàn thành nhiệm vụ. Nếu bạn so sánh con số này với số lượng nguyên tử trong vũ trụ đã biết, số lượng nguyên tử sẽ chỉ là một con số vô cùng nhỏ.

 

Đối với tất cả các mục đích thực tế, bạn có thể nói rằng con người có khả năng não bộ vô hạn. Bạn cũng có thể nói rằng mọi điều trong Vũ trụ không xảy ra một cách ngẫu nhiên. Rõ ràng, phải có một số mục đích cho số lượng gần như vô hạn các kênh mà thông tin có thể truyền qua. Việc có hàng nghìn tỷ lần các đường dẫn thần kinh trong một bộ não, hơn cả số lượng các ngôi sao trong vũ trụ đã biết, sẽ cho chúng ta manh mối về việc chúng ta là ai và là gì.

Trí nhớ và sự liên kết

 

Trong Chương 4, chúng ta sẽ nói về lý trí và cách nó bị lập trình và áp đặt điều kiện để phù hợp với các hệ thống niềm tin khác nhau. Bộ não, là thực thể vật lý của tâm trí, thiết lập các đường dẫn thần kinh cho thông tin được cung cấp bởi tâm trí. Khi bộ nhớ học được điều gì đó, các đường dẫn tương tự sẽ được sử dụng lặp đi lặp lại trong não cho đến khi tín hiệu được “khắc sâu” vào hệ thống. Nếu một kích thích cụ thể đi vào não, bất kỳ kinh nghiệm hoặc niềm tin hiện có nào xung quanh kích thích đó sẽ kích hoạt các con đường đã được kích hoạt trước đó bởi kích thích đó. Quá trình này được gọi là “trí nhớ theo liên kết.”

 

Ví dụ, nếu bạn có một bài hát yêu thích trên radio, bạn có thể nhận thấy rằng mỗi khi bạn nghe bài hát, bạn sẽ nghĩ đến một địa điểm nào đó hoặc cảm thấy một cảm xúc nào đó. Có thể lần đầu tiên bạn nghe bài hát là khi lái xe dọc theo bờ biển, và vì vậy mỗi khi bạn nghe nó bây giờ, bạn lại nhớ đến chuyến lái xe đó.

 

Có những mặt tốt và không tốt về trí nhớ theo liên kết. Nếu bạn cần ghi nhớ một danh sách dài các sự kiện, có những kỹ thuật sử dụng sự liên kết để giúp bạn ghi nhớ. Mặt khác, một khi một đường dẫn trở nên khắc sâu bởi một kích thích nào đó, thì rất khó để định tuyến lại thông tin theo một con đường khác. Chúng ta sẽ xem xét sâu hơn về sự lập trình tiềm thức và áp đặt điều kiện này khi chúng ta nói về lý trí.

 

Hình 2.6 cho thấy một bản đồ mẫu của các đường dẫn thần kinh được kích thích với trí nhớ bằng liên kết. Các từ đơn thể hiện một chuỗi ý tưởng được kích hoạt bởi một tác nhân kích thích.

 

Hình 2.6 – Trí nhớ theo liên kết

Bây giờ, chúng ta hãy xem xét một số khía cạnh khác của cơ thể vật lý.

 

3.              Hơi thở

 

Một trong những bí mật của cuộc sống là hơi thở. Tại sao hơi thở là một bí mật? Bởi vì hầu hết chúng ta coi việc thở là điều hiển nhiên. Có một số kỹ thuật thở có thể tăng cường sức khỏe và giúp loại bỏ bệnh tật. Một trong những hình thức tôi sử dụng được gọi là thở tái sinh hoặc thở có ý thức. Để biết thêm thông tin về phương pháp thở này, vui lòng xem Phụ lục A.

 

Hít thở đúng cách làm tăng lượng oxy trong máu, tăng cường hệ thống miễn dịch, phục hồi sự mất cân bằng hóa học và giúp hợp nhất và hàn gắn các tầng thứ khác, chẳng hạn như các vấn đề về cảm xúc.

 

4.              Tập thể dục

 

Lợi ích chính của việc tập thể dục là cải thiện lưu thông máu và tăng lượng oxy, không chỉ ở các bộ phận cơ thể chuyển động, mà còn ở não và hệ tuần hoàn nói chung. Đối với những người tương đối khỏe mạnh, tôi khuyên bạn nên tập yoga, khiêu vũ, khí công, đi bộ tự nhiên, bơi lội, đi xe đạp và các bài tập thể dục nhịp điệu khác. Massage và vận động cơ thể cũng rất được khuyến khích. Vận động cường độ cao, chẳng hạn như chạy hoặc thể hình có tác động mạnh, có thể hiệu quả đối với một số người, nhưng dễ bị lạm dụng do việc bắt cơ thể làm việc quá sức, vượt quá mức độ cần thiết mang tính trị liệu.

 

5.              Chế độ ăn

 

Tôi sẽ không rao giảng về những gì bạn nên hoặc không nên ăn, mặc dù vậy tôi sẽ đưa ra một số hướng dẫn chung. Cân bằng là từ khóa quan trọng ở đây. Ăn bất cứ thứ gì quá nhiều có thể là một vấn đề. Ngoài ra, việc thay đổi chế độ ăn uống đột ngột có thể khiến cơ thể bị sốc. Nếu bạn nhạy cảm với cơ thể của mình, nó sẽ cho bạn biết nó cần gì. Hầu hết mọi người không nhạy cảm với cơ thể bởi vì họ bị chứng nghiện chất hoặc bị các vấn đề cảm xúc ảnh hưởng đến những gì họ ăn. Không phải bản thân các chất mà là sự nghiện ngập mới là vấn đề chính. Bản thân việc ăn có thể là một chứng nghiện.

 

Đã có nhiều thông tin sai lệch liên quan đến chế độ ăn uống. Ngành công nghiệp thịt và sữa đã từng quyết định rằng trung bình con người cần khoảng 2.500 calo mỗi ngày, bao gồm một phần lớn các loại thực phẩm nêu trên. Ước tính mới nhất của một số bác sĩ tổng thể là 1.000 đến 1.500 calo mỗi ngày, với một giả định rằng chúng ta ăn thực phẩm có hàm lượng dinh dưỡng cao. Đất trồng ở hầu hết các nơi trên thế giới bị cạn kiệt các chất dinh dưỡng quý giá, và phần nhiều thực phẩm đều đã qua chế biến. Hầu hết mọi người ăn quá nhiều và không nhận được dinh dưỡng cần thiết. Chúng ta ăn vì lý do tâm lý và xã hội cũng nhiều như chúng ta ăn vì đói. Nếu chúng ta chỉ ăn khi cơ thể thực sự đói, hầu hết chúng ta có thể sẽ tiêu thụ khoảng 1/4 lượng thực phẩm được tiêu thụ của các nước như Hoa Kỳ.

 

Mặc dù thịt đỏ có độ rung động rất đậm đặc, nhưng không phải tất cả mọi người đều sẵn sàng ăn chay nghiêm ngặt. Có thể có những lúc thích hợp để ăn thức ăn đặc. Tuy nhiên, hàm lượng chất béo và độc tố cao trong hầu hết các loại thịt đỏ khiến bạn dễ dàng ăn quá nhiều. Ngoài ra, hầu hết các sản phẩm động vật được tiêu thụ đều gây ảnh hưởng nặng nề đến môi trường. Nếu bạn muốn có bức tranh toàn cảnh về việc ăn các sản phẩm động vật tác động đến sức khỏe của bạn và môi trường như thế nào, tôi khuyên bạn nên đọc quyển sách “Diet for a New America” [Chế độ ăn cho một nước Mỹ mới] của John Robbins.

 

Một lần nữa, đây chỉ là những hướng dẫn, không phải là mệnh lệnh. Bằng cách lắng nghe cơ thể mình, bạn sẽ tìm ra chế độ ăn phù hợp với mình.

 

6.              Chứng nghiện chất

 

Chứng nghiện chất có liên quan đến việc thèm ăn một số loại thực phẩm (hoặc thuốc) vì những lý do khác mà không phải do cơ thể bị đói hoặc vì tác dụng thực sự có lợi cho cơ thể. Sự thèm muốn hầu như luôn luôn dựa trên cảm xúc và phát sinh từ việc không được đáp ứng nhu cầu tình cảm trong thời thơ ấu. Một số chất gây nghiện về thể chất cũng như nghiện về mặt tâm lý, nghĩa là bạn phải chữa lành cả hai khía cạnh để thoát khỏi cơn nghiện – các vấn đề cảm xúc đằng sau sự thèm muốn và sự phụ thuộc của cơ thể vào các chất này. Nghiện chất phổ biến nhất là nghiện đường. Nhiều người trong chúng ta đã được cho kẹo khi còn nhỏ khi chúng ta hành xử tốt. Kết quả là, chúng ta lớn lên và đánh đồng đồ ngọt với tình yêu của cha mẹ. Khi lớn lên chúng ta khao khát có được tình yêu thương, chúng ta cố gắng thỏa mãn sự khao khát đó bằng cách ăn đồ ngọt. Một lượng nhỏ đường đơn, chẳng hạn như đường có trong trái cây chưa qua chế biến, có thể có lợi cho cơ thể, nhưng hơn một thìa cà phê đường tinh luyện mỗi ngày có lẽ là quá nhiều. (Loại nước ngọt, cỡ bình thường, trung bình chứa vài thìa cà phê đường.)

 

Một chất gây nghiện khác là muối. Bạn có thể đã nhận đủ lượng muối cần thiết trong chế độ ăn uống của mình, ngay cả khi bạn không mua các sản phẩm có chứa muối được bổ sung thêm và không bao giờ nêm muối vào thức ăn của mình. Tất nhiên, cơ thể bạn có thể thèm các khoáng chất mà vì thực phẩm hầu như được trồng bằng đất bạc màu không cung cấp đủ các loại khoáng chất này. Tôi khuyên bạn nên bổ sung vitamin và khoáng chất có nguồn gốc hữu cơ (không phải vitamin tổng hợp).

 

Nghiện rượu rõ ràng là một vấn đề lớn trong xã hội của chúng ta. Một số người thỉnh thoảng uống một ly bia hoặc một ly rượu, trong khi đối với những người khác, có thể cần kiêng hoàn toàn.

 

Có nhiều loại thuốc hợp pháp và bất hợp pháp gây nghiện về thể chất và tâm lý. Thông thường, những loại thuốc hợp pháp dễ gây nghiện hơn những loại bất hợp pháp. Một số loại thuốc có thể có hữu ích trong trường hợp cấp cứu, khi được sử dụng đúng cách, và những loại khác có thể thúc đẩy sự thức tỉnh tâm linh, nhưng chúng thường chỉ thích hợp khi không có lựa chọn thay thế tốt hơn. Việc phụ thuộc vào một chất để giảm đau hoặc giảm sự khó chịu khiến bạn dễ bị nghiện chất đó. Nếu bạn đang quá đau hoặc quá khó chịu, bạn có thể tạm thời dùng thuốc giảm đau, nhưng bạn nên ngừng thuốc (theo lời khuyên của bác sĩ) càng sớm càng tốt.

 

7.              Ô nhiễm

 

Không có nơi nào trên Trái Đất mà đất, không khí và nước hoàn toàn không bị ô nhiễm do con người gây ra. Tuy nhiên, bạn có thể làm nhiều điều để giảm thiểu ô nhiễm. Nếu có thể, bạn nên sống xa các thành phố lớn, ở độ cao trung bình (2.000 đến 5.000 feet, hoặc 500 đến 1.500 mét so với mực nước biển), ở nơi có khí hậu ôn hòa, nơi có cây cối, hoa và suối.

 

Hai nguồn ô nhiễm lớn nhất là ô tô và người tiêu dùng.

 

Giảm thiểu việc lái xe bất cứ khi nào có thể. Đi chung xe hoặc đi xe buýt nếu bạn sống và làm việc tại một thành phố lớn. Hãy loại bỏ các loại xe tiêu tốn nhiên liệu (như xe SUV, xe có khoang kéo phía sau [station wagon], xe tải và xe sedan cỡ lớn) trừ khi cuộc sống của bạn phụ thuộc vào việc chuyên chở nhiều người mỗi ngày. Giá mua các loại xe này có thể hấp dẫn, nhưng về lâu dài, chúng sẽ khiến bạn tiêu tốn nhiều tiền hơn vì chi phí nhiên liệu. Nếu bạn có đủ khả năng, hãy mua sắm tại các cửa hàng thực phẩm tốt cho sức khỏe và chỉ mua các sản phẩm hữu cơ. Tốt hơn nữa, hãy mua tại những người trồng trọt ngay tại nơi bạn sống. Theo tôi, 90% thực phẩm được tìm thấy trong một siêu thị “bình thường” là không phù hợp cho tiêu dùng của con người. Các loại thực phẩm biến đổi gen (GMO), bột ngọt (MSG), siro ngô nhiều đường fructose, muối natri nitrit và nitrat, v.v., được tìm thấy trong hầu hết các loại thực phẩm chế biến sẵn. “Thực phẩm” như xúc xích, thịt xông khói, hầu hết ngũ cốc ăn sáng, thịt đóng gói, đồ uống có hương vị, v.v., là độc hại đối với cơ thể con người và cần bị cấm trên các kệ hàng. Ngay cả khi bạn tránh xa các chất phụ gia hóa học, bạn sẽ tìm thấy dư lượng thuốc trừ sâu trên hầu hết tất cả các loại thực phẩm không hữu cơ. Điều này bao gồm các hóa chất như dioxin, chất mà không có ngưỡng nào được xem là an toàn, và glyphosate, được tìm thấy trong Round-Up, loại thuốc trừ sâu phổ biến nhất hiện đang được sử dụng.

 

8.              Các vấn đề chung bắt nguồn từ tầng thứ vật lý

 

Đó là các vấn đề do sự đầu độc và ô nhiễm môi trường (khói xe bao gồm ô nhiễm hydrocacbon, máy móc ồn ào, chất thải công nghiệp bao gồm độc tính kim loại nặng, chất độc trong thực phẩm, thành phố và môi trường xã hội quá đông đúc, điện thoại di động, trạm thu phát sóng radio và truyền hình, bức xạ wifi, bức xạ hạt nhân, GMO, quá nhiều carbon dioxide, suy giảm tầng ozone, v.v.), chế độ ăn uống nghèo nàn (thiếu chất dinh dưỡng và chứng nghiện chất), lười vận động, tập thể dục quá mức hoặc cử động cơ thể lặp đi lặp lại (mỏi mắt, vận hành thiết bị nặng, lao động chân tay quá mức, vv), thở không đúng cách, các vấn đề về cảm xúc và các vấn đề từ các cấp độ khác:

 

  • Sự mất cân bằng hóa học trong bộ não và cơ thể, gây căng thẳng, mệt mỏi, kích thích, mê man (tinh thần không minh mẫn), v.v.;

 

  • Mất cân bằng hệ thống miễn dịch, gây mẫn cảm với vi rút, vi khuẩn yếm khí, nấm mốc, nấm, v.v.;

 

  • Các vấn đề về tiêu hóa, hội chứng ruột kích thích, ợ chua, cơ thể thừa axit, bệnh trào ngược axit, đầy bụng, tiêu chảy, táo bón, các vấn đề về ruột kết, v.v. (thường do tiêu thụ thực phẩm chế biến sẵn);

 

  • Bệnh môi trường, bao gồm hội chứng mệt mỏi mãn tính, quá mẫn cảm, bồn chồn, mất ngủ, dị ứng, hen suyễn, tắc nghẽn, huyết áp cao, cường giáp, suy giáp, v.v.;

 

  • Các vấn đề về hệ thần kinh và tuần hoàn do tắc nghẽn cột sống do tư thế sai, ngồi quá nhiều trước máy tính, máy chơi game, hoặc tivi, v.v.

 

9.              RNA và DNA

 

Nếu bộ não là máy tính sinh học, và cơ thể là tòa nhà nơi chứa máy tính sinh học, thì RNA và DNA chính là mã chương trình. Mã này (bao gồm các chuỗi phân tử protein) xác định kích thước, hình dạng và vẻ bề ngoài của cơ thể, cùng những đặc điểm khác. Nó cũng kiểm soát khả năng của cơ thể để nhận và truyền thông tin từ các cấp độ khác của cơ thể. Mã DNA là bản thiết kế đích thực của sự sống.

 

Kỹ thuật di truyền liên quan đến khoa học về chỉnh sửa các mã DNA và vật chất di truyền trong cơ thể con người. Tuy nhiên, điều này có thể rất nguy hiểm. Hầu hết các nỗ lực tái lập trình DNA đều được thực hiện bằng cách nối và gắn vật liệu lạ vào cấu trúc RNA và DNA có sẵn. Là một kỹ thuật điều trị, điều này giống như nhổ răng bằng kìm. Có những kỹ thuật tinh vi hơn nhiều mà không tạo ra tác dụng phụ nguy hiểm. Vấn đề với việc chỉnh sửa mã sinh học là nó thường không giải quyết được các vấn đề cơ bản; có nghĩa là, nguyên nhân gốc rễ nằm đằng sau các khiếm khuyết di truyền. Các vấn đề di truyền hiếm khi gây ra ở tầng thứ vật lý (mặc dù một số có liên quan đến các chất ô nhiễm hóa học). Nguyên nhân thực sự thường được tìm thấy ở các tầng thứ dĩ thái (etheric) và nhân quả của sự hiện hữu, trong các kiếp sống trong quá khứ và những nơi khác. Các kỹ thuật và khoa học gia về di truyền hầu như không thể hiểu được những tầng thứ của thực tại này.

 

Can thiệp vào mã DNA của một linh hồn cũng có thể cản trở ý chí tự do của linh hồn đó, gây ra sự tăng tốc hoặc làm chậm quá trình tiến hóa tự nhiên.

 

Với kiến ​​thức thích hợp, có thể tái lập trình RNA và DNA để tạo ra sự bất tử về thể chất.

 

Bạn có thể chỉnh sửa DNA của chính mình thông qua thiền định và các kỹ thuật khác. Sau này, chúng ta sẽ thảo luận về sự thăng lên và mối liên quan của quá trình thăng lên đến mã DNA.

 

10.           Tiến hóa và đột biến

 

Đột biến là sự chuyển đột ngột từ tầng thứ cấu tạo di truyền này sang tầng thứ khác. Nó có thể được tạo ra ra bởi các nhân tố môi trường, tiến hóa lượng tử, hoặc một cách có ý thức thông qua các kỹ thuật tâm linh nhất định. Trái ngược với học thuyết Darwin và các lý thuyết khoa học liên quan, sự tiến hóa không diễn ra dần dần theo kiểu tuyến tính. Trong hầu hết các dạng sống, có những giai đoạn tương đối ổn định, sau đó là những giai đoạn đột biến. Quá trình tiến hóa diễn ra từ giai đoạn mật độ này sang giai đoạn mật độ khác theo cách được mô tả trong Hình 2.7. Sinh vật tiến hóa theo thời gian ở một mật độ cho đến khi nó dần dần đạt đến phần trên của mức mật độ đó, sau đó trải qua một đột biến hoặc sự dịch chuyển lượng tử sang mức mật độ tiếp theo. Để biết thêm thông tin về mật độ, hãy xem Chương 9.

 

Đột biến có thể được gây ra bởi bức xạ vũ trụ đi vào Trái Đất trong một số giai đoạn nhất định của chu kỳ vũ trụ, chẳng hạn như gần cuối hoặc bắt đầu chu kỳ chính (bao gồm chu kỳ mà chúng ta đang ở giữa chu kỳ đó lên đến đỉnh điểm vào khoảng ngày 21 tháng 12 năm 2012 và xảy ra khoảng 26.000 năm một lần). Sự đột biến cũng có thể được gây ra bằng cách thay đổi nhận thức của bạn, thông qua thiền định, cầu nguyện, hợp nhất cảm xúc và một loạt các yếu tố khác.

 

Hình 2.7 – Đường xoắn ốc tiến hóa

Lưu ý: Hình trên đại diện cho sự tiến hóa của các dạng sống từ khoáng vật đến giác ngộ của con người và không tính đến sự luân hồi và hạ xuống của tinh thần thành vật chất – các chủ đề này sẽ được thảo luận sau.

 

11.           Luân hồi

 

Luân hồi là một chủ đề khá phức tạp. Nó không đơn giản như chỉ bỏ lại một cơ thể và nhận lấy một cơ thể mới. Có nhiều tầng thứ và chiều kích đối với một linh hồn. Khi cái chết về thể xác xảy ra, một số tầng thứ quay trở lại cõi tâm linh và một số tầng thứ thì không. Mức độ mà các khía cạnh nào của linh hồn ở lại các cõi giới thấp phụ thuộc nhiều vào trạng thái ý thức của người đó tại thời điểm rời khỏi Trái Đất. Chương 20 giải thích một phần quá trình phân mảnh linh hồn trước, trong hoặc sau cái chết thể xác. (Ghi chú của tác giả: Chủ đề này được giải thích rất sâu trong cuốn sách “Hợp nhất linh hồn”.)

 

Từ quan điểm thời gian tuyến tính vật lý, các linh hồn thường có hàng trăm hiện thân, cả trên hành tinh này và hành tinh khác. Tiền kiếp thường chỉ được ghi nhớ khi mức độ nhận thức của linh hồn đạt đến một giai đoạn nhất định. Từ vị trí thuận lợi của Cái Tôi Cao Hơn, linh hồn có thể nhìn thấy một cái nhìn rộng hơn về dòng thời gian vũ trụ mà linh hồn đang du hành, bao gồm nhiều kiếp sống. Linh hồn có thể lựa chọn địa điểm và cách thức để hóa thân, và vào hoàn cảnh nào. Một khía cạnh của Cái Tôi Cao Hơn, được gọi là linh hồn cấp cao, giám sát quá trình hóa thân và xác định nhiều hoàn cảnh xung quanh mỗi kiếp sống mới. Các vấn đề chưa được giải quyết từ kiếp trước có thể ảnh hưởng đến thành phần RNA/DNA của quá trình tiến hóa linh hồn. Nhiều dị tật bẩm sinh là kết quả của các quyết định được thực hiện trong các kiếp trước (nghiệp kiếp trước). Nói một cách khác, nhiều bệnh tật và khiếm khuyết di truyền là kết quả của việc linh hồn gánh lấy nghiệp chướng (bài học cuộc sống) với mục đích sửa chữa sự mất cân bằng từ những kiếp sống trong quá khứ. Nghiệp không phải là một hình phạt, mà là một công cụ học tập mà rồi cuối cùng cũng sẽ trở nên không cần thiết.

 

12.           Sự thăng lên

 

Sự thăng lên xảy ra khi một linh hồn tiến hóa vượt ra ngoài vòng luân hồi. Khi thăng lên về tinh thần, linh hồn rời khỏi thể xác và đi vào cõi cao hơn. Từ đó, linh hồn có thể tự nguyện trở lại Trái Đất hoặc đi đến nơi khác trong vũ trụ. Sự thăng lên về thể chất xảy ra khi linh hồn tăng tần số rung động của cơ thể vật lý đủ để chuyển từ mật độ 4 lên đến mật độ 5 (tầng thứ tiến hóa). Điều này có nghĩa là cấu trúc tế bào của cơ thể được tăng tốc đến mức trở nên vô hình đối với nhận thức thông thường ở chiều kích 3. (Giải thích đầy đủ hơn về sự thăng lên và mật độ được đưa ra trong các chương sau.)

 

***

Tổng hợp sách trong Thư viện trái đất 

Facebook page

ĐỂ LẠI NHẬN XÉT

Please enter your comment!
Please enter your name here