NHỮNG BÍ ẨN CUỘC ĐỜI – CHƯƠNG 7: QUẢ BÁO TREO  

0
157

CHƯƠNG VII  

QUẢ BÁO TREO  

Một điều lạ lùng mà người ta có thể nhận thấy trong những trường hợp quả báo về xác thân như chúng tôi đã nêu trên, là có đôi khi những quả báo chỉ xuất hiện  trong một hay nhiều kiếp sau khi cái nhân được tạo ra. Người ta tự hỏi tại sao lại  có sự đình chỉ đó, và tại sao nghiệp quả không báo ứng ngay tức khắc như một quả banh dội lại ngay sau khi được ném vào tường?

Dường như câu hỏi đó có nhiều cách giải đáp. Một là: Linh hồn đã gây nhân tạo  nghiệp, phải đợi đến khi có một hoàn cảnh và thời giờ thuận tiện cho quả kia kết  thành hình. Có khi phải đợi nhiều thế kỷ mới có một cơ hội thuận tiện và trong khi  chờ đợi, thì khoảng thời gian đó được sử dụng để cải thiện cho tâm tính của đương  sự. Người ta tìm thấy một ví dụ về loại quả báo treo này trong những tập hồ sơ Edgar Cayce về những linh hồn trước kia đã sống ở châu Atlantis.

Khoa học chưa bao giờ có thể xác nhận hay hoàn toàn phủ nhận sự hiện diện của  châu Atlantis vĩ đại và cổ xưa chìm dưới đáy biển Đại Tây Dương, mặc dầu người  ta có đủ lý do để tin ở sự kiện ấy trước những bằng chứng lịch sử, khoa học và văn  hóa. Một tài liệu lịch sử quan trọng là bộ sách “Crisias Timeus” của Platon trong  đó tác giả tường thuật những điều ông đã nghe nói về châu Atlantis. Một trong  những bằng chứng khoa học thường được nêu ra là sự khám phá của các nhà bác  học, nhân dịp một sợi dây cáp đặt ngầm dưới biển Đại Tây Dương bị đứt và chìm  xuống đáy biển ở độ sâu 3.000 thước. Khi sợi dây cáp được vớt lên, thì nó quấn  theo những mẫu phún thạch (lava). Khi người ta quan sát bằng kính hiển vi thì  thấy rằng những mẫu phún thạch này ngày xưa đã từng đông đặc lại trên đất liền,  trước khi chìm xuống đáy biển.

Trong những bằng chứng văn hóa đáng kể nhất, thì trước hết là những chuyện giai  thoại về trận Đại Hồng Thủy. Người ta gặp những giai thoại này không những  trong bộ Thánh Kinh (Bible), mà còn trong những truyện Thần Thoại tôn giáo và  lịch sử của hầu hết tất cả những dân tộc cổ xưa trên thế giới.

Kế đó là những điểm tương đồng giữa những ngôn ngữ, văn tự và kiến trúc của Ai  Cập và Trung Mỹ, ở vào một thời kỳ mà người ta không thấy có những phương  tiện giao thông giữa hai lục địa Mỹ châu và Phi châu.

Tất cả những bằng chứng kể trên có thể giúp cho người ta tin tưởng nơi sự hiện  diện của châu Atlantis, nhưng vẫn chưa đủ để đưa đến một kết luận chắc chắn.  Dẫu sao, nếu ta có phải tin nơi những cuộc soi kiếp của ông Edgar Cayce, thì châu  Atlantis đã từng có một cách hiển nhiên, không còn nghi ngờ gì nữa. Theo ông  Edgar Cayce, một vài gian phòng bí mật hãy còn khóa chặt trong Kim Tự Tháp lớn ở Ai Cập, một ngày kia sẽ có thể tiết lộ cho chúng ta một kho tài liệu đầy đủ về lịch sử và nền văn minh của châu Atlantis. Ông Edgar Cayce cho biết rằng  những tài liệu đó được đem chôn giấu trong Kim Tự Tháp, do những người dân  châu Atlantis ngày xưa di cư qua Ai Cập trong cuộc thiên tai địa chấn lần thứ ba  và cũng là lần cuối cùng đã nhận chìm châu Atlantis xuống đáy biển vào khoảng  9.500 năm trước công nguyên. Ông Edgar Cayce cũng có nói rằng đảo Bimini, ở ngoài khơi tiểu bang Florida bên Hoa Kỳ, nguyên là đỉnh ngọn núi cao ở châu  Atlantis ngày xưa. Ông cũng cho biết rằng tại nơi đó, người ta có thể tìm thấy dưới  đáy biển một ngôi đền cổ của dân Atlantis, mái vòm của ngôi đền được xây cất với  những tấm kiếng thủy tinh theo một kiểu kiến trúc đặc biệt để thu ánh nắng mặt  trời. Những cuộc soi kiếp cho biết dân châu Atlantis ngày xưa đã từng đạt tới một  trình độ khoa học tiến bộ hơn của chúng ta ngày nay. Họ đã từng phát triển tới một  mức rất cao các ngành điện khí, vô tuyến điện, vô tuyến truyền hình, những  phương tiện di chuyển trên không trung, tàu ngầm, cùng phương pháp sử dụng  mãnh lực của Mặt Trời và nguyên tử lực. Họ đã từng phát minh những kỹ thuật  dùng nhiệt lực, thắp sáng, và vận chuyển tiến bộ hơn cả chúng ta ngày nay.

Điều đáng ghi nhớ là những cuộc soi kiếp của ông Edgar Cayce thường lập đi lập  lại nhiều lần rằng dân châu Atlantis ngày xưa bị họa diệt vong vì họ đã lạm dụng  những sức mạnh kinh khủng mà họ chế ngự được. Họ dùng điện lực, khoa thôi  miên và mãnh lực của tư tưởng để đàn áp, chế ngự kẻ khác, hoặc sai khiến chúng  làm việc một cách nô lệ, hoặc để cưỡng hiếp phụ nữ và thỏa lòng háo sắc của họ.

Người ta sẽ hiểu rằng những sự lạm dụng quyền năng và những hành vi trái đạo kể trên không thể cứu chuộc được một cách đầy đủ và trọn vẹn trong những thời kỳ mà khoa học chưa được phát triển, và người ta chưa có những kiến thức sâu rộng  về khoa tâm lý hoặc khoa Huyền Môn. Cuộc thử thách hữu hiệu nhất để biết xem  một người đã thắng được thói ăn uống vô tiết độ hay chưa, là đặt trước mặt y  những món cao lương mỹ vị mà y ưa thích, để xem y có biết tự chủ hay không.  Người ta không thể biết được rằng một người đã hoàn toàn tự chủ về đường sắc  dục hay chưa, nếu y không gặp cơn thử thách: Bị cám dỗ mà vẫn không động lòng  như Thánh Antoine ngày xưa vẫn thanh tịnh giữa những giai nhân tuyệt sắc.

Cũng giống như thế, những linh hồn đã lạm dụng những quyền năng phi thường  và mầu nhiệm nhờ sự phát triển khoa học của châu Atlantis thuở xưa, không chắc  là đã từ bỏ thói ích kỷ tham tàn và cải tạo tâm tính, nếu họ chưa gặp những hoàn  cảnh tương tự của một thời kỳ phát triển khoa học và kỹ thuật như thời đại này, để thử thách xem họ có biết dùng những phương tiện đó với một tinh thần xây dựng,  hay là với mục đích ích kỷ hại nhân như thuở xưa kia.

Sự tiến bộ từng chu kỳ của lịch sử đã làm cho thế kỷ 20 trở nên thời kỳ phát triển khoa học kể trên; bởi đó những cuộc soi kiếp của ông Edgar Cayce tiết lộ cho biết  rằng có rất nhiều dân châu Atlantis thời cổ nay đã đầu thai chuyển kiếp vào thời  kỳ hiện tại. Những sự tiến bộ về khoa học và kỹ thuật có thể hiểu được bằng hai cách: Trước hết, đó là do kết quả của những kinh nghiệm về mọi phát minh khoa  học mà những linh hồn mới đầu thai đã mang lại từ những kiếp quá khứ của châu  Atlantis ngày xưa. Thứ hai, thời kỳ này là giai đoạn thử thách cho những linh hồn  đó để xem trong những thế kỷ trung gian, họ đã thu thập được những đức tính gì  khả dĩ giúp cho họ chống lại sự cám dỗ do thói ích kỷ và tàn bạo của thế hệ văn  minh khoa học vật chất đưa đến. Bởi đó, cái yếu tố căn bản nó quyết định vấn đề “Quả báo treo” dường như là những linh hồn đã gây sự nghiệp quả xấu phải chờ đầu thai vào một thời kỳ thuận tiện, có một nền văn minh tiến bộ thích nghi. Vấn  đề này hình như cũng có liên quan đến sự tiến bộ từng chu kỳ của lịch sử, và việc  luân phiên của những nhóm linh hồn trong việc chọn lựa những thời kỳ đầu thai chuyển kiếp xuống trần.

Những trào lưu chủng tộc và các sắc dân trên Địa Cầu cũng đầu thai trở lại thế gian theo từng đợt hay từng nhóm, cũng ví như những luồng sóng dập dồn từng thời kỳ, theo định luật Tuần Hoàn của Vũ Trụ. Tuy nhiên, có nhiều đoạn trong các cuộc soi kiếp của ông Edgar Cayce chỉ ra rằng sự chuyển kiếp của những nhóm thiểu số trong những luồng sóng lớn đó, và thậm chí sự đầu thai của từng cá nhân trong những nhóm ấy, có thể không phải là do tiền định một cách chặt chẽ và máy  móc theo từng chu kỳ nhất định. Những linh hồn và từng nhóm linh hồn không phải tái sinh trở lại một cách đều đặn như một việc đã định sẵn. Về điểm này, cũng như trên những lãnh vực khác của Cơ Trời Máy Tạo, con người vốn có quyền tự do ý chí, và một cá nhân hay một nhóm người đều có quyền tự do chọn lựa những  thời kỳ đầu thai tùy theo ý muốn.

Điều này lại đưa đến một sự phức tạp mới nữa: Nếu một linh hồn cần phát triển một đức tính trong những giao tế của y với một linh hồn hay một nhóm linh hồn khác, có lẽ y sẽ cần trì hoãn sự đầu thai của y trong một thời gian để đợi đến một thời kỳ được chọn lựa cho sự đầu thai chung của những linh hồn ấy. Và nếu đó là một sự trì hoãn lâu dài, thì trong khi chờ đợi, linh hồn ấy có thể dùng thời gian để cố gắng phát triển một vài đức tính mới, hoặc một khía cạnh mới nào đó về sự tiến hóa của y, và bởi đó mới có cái hiện tượng “Quả báo treo”.

Những sự kiện kể trên nhắm vào những yếu tố bên ngoài của quả báo treo; nhưng ngoài ra còn có những yếu tố bên trong. Một sự kiện tâm lý sau đây còn có một tầm quan trọng tương đương, nếu không muốn nói là lớn hơn; đó là sức mạnh tinh  thần cần thiết để chịu đựng những quả báo xảy đến. Linh hồn phải trả quả cần có cơ hội thâu thập những đức tính cần thiết để đương đầu với quả báo khi nó xảy đến; chứ nếu không thì quả báo nặng nề quá sức chịu đựng có thể làm cho đương sự bị đè bẹp, thay vì giúp ích cho sự tiến hóa của y.

Nhiều người bệnh tật khi được ông Edgar Cayce soi kiếp và được cho biết rằng nguồn gốc bệnh trạng của họ được truy nguyên ra từ nhiều kiếp trở về trước, đều lấy làm tò mò muốn biết lý do của sự trì hoãn lâu dài như thế. Những người muốn làm sáng tỏ vấn đề này bằng một cuộc soi kiếp thứ nhì, đều nhận được câu trả lời giống như của cô thiếu nữ què mà chúng tôi đã kể chuyện trong chương 5. Cô này hỏi: “Tại sao linh hồn lại đợi cho đến kiếp này mới trả xong nghiệp quả đã gây ra từ thời Đế Quốc La Mã?” Cô ấy được trả lời như sau: “Bởi vì linh hồn ấy không đủ sức trả quả sớm hơn”.

Câu chuyện ấy chỉ rõ rằng nếu một linh hồn không đủ sức trả quả sớm hơn, đó là vì bởi một lý do bên trong hơn là lý do bên ngoài. Trong trường hợp đó, cũng như những trường hợp bệnh tật khác, một sự nghiên cứu tỉ mỉ về những kiếp trung gian chỉ ra rằng những kiếp này là những kinh nghiệm cần thiết để giúp cho đương sự có cơ hội thu thập thêm một vài đức tính tốt và để tiến hóa thêm.

Ví dụ, nếu chúng ta xét lại trường hợp của người thiếu niên 16 tuổi, bị thương nặng trong vụ tai nạn xe hơi như đã kể trên, chúng ta thấy rằng nguyên nhân của nghiệp quả này là do y đã gieo trong thời kỳ Đế Quốc La Mã. Tuy nhiên, một kiếp đầu thai vào thời kỳ Cách Mạng ở Bắc Mỹ đã giúp cho họ có cơ hội phát triển một vài đức tính như can đảm, yêu đời, và khả năng khai thác khía cạnh tốt của mọi hoàn cảnh. Những đức tính đó là những điều mà y cần dùng để chịu đựng cảnh  khổ trong kiếp hiện tại, khi quả đã chín mùi và đến kỳ phải trả.

Một ví dụ sau đây có thể giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về vấn đề này:

Một người kia vay năm triệu đồng của ngân hàng để kinh doanh sự nghiệp. Y không thể nào trả hết số tiền đó trong vài ngày hay một tuần lễ, hoặc một tháng sau. Vì lẽ đó, y xin hẹn đến một kỳ hạn nào đó, ví dụ là ba năm để cho y có thời  giờ dành dụm lần hồi cho đủ số trước khi trả dứt làm một lần. Ngân hàng không  thể bắt y phải trả dứt trong một tuần lễ, vì lẽ tất nhiên là y không đủ sức trả gấp, và đòi nợ một cách gắt gao như thế thật là không có ích gì. Có thể rằng trên địa hạt tâm linh, sự trì hoãn thời kỳ phải trả quả, gọi là quả báo treo, cũng diễn ra với một tinh thần đó.

Nếu một ngày kia thuyết Luân Hồi được một số đông người thừa nhận và nếu quan niệm về Nhân Quả được quần chúng phương Tây cũng như phương Đông hiểu rõ, ít nhất trên nguyên tắc đại cương, thì vấn đề quả báo treo có lẽ sẽ trở nên một đầu đề lo sợ cho rất nhiều người! Cái ý tưởng rằng một hành động hung dữ độc ác trong quá khứ có thể bị quả báo đui mù, tàn tật trong một kiếp tương lai xa hay gần, làm cho người ta cảm thấy băn khoăn lo sợ. Đối với những người nhạy cảm và nhiều tưởng tượng, thì một món nợ nhân quả mà họ không được biết rõ cũng ví như một lưỡi gươm treo lủng lẳng trên xà nhà và chực rơi xuống đầu họ bất cứ lúc nào. Quả báo treo có thể trở nên một sự đe dọa khủng khiếp rùng rợn  trong những năm đầu của thế hệ phổ biến về thuyết Luân Hồi, cũng như Quỷ Satan và lửa Hỏa Ngục đã từng là một mối đe dọa sợ hãi cho người đời trong thế hệ đã qua.

Để chống lại khuynh hướng sợ sệt đó những nhà lãnh đạo các phái Tư Tưởng Mới có thể đi đến việc phủ nhận toàn bộ vấn đề quả báo treo, cũng như phong trào Khoa Học Công Giáo phủ nhận tội lỗi, bệnh tật, sự chết, sự lầm lạc và cõi vật chất. Những sự phủ nhận đó có một sức dẫn dụ rất mạnh và có thể đưa đến những kết  quả khá lành mạnh về đường tâm linh. Tuy nhiên, phủ nhận vật chất, thế gian, tội  lỗi và quả báo, không có nghĩa là giải quyết được vấn đề. Bổn phận của chúng ta  không phải là giấu diếm sự thật cũng như con chim đà điểu vùi đầu xuống đống  cát mà là thắng đoạt, chế ngự và tổ chức lại cõi đời vật chất theo những lý tưởng tâm linh cao cả. Phủ nhận Luật Nhân Quả chẳng khác nào như không nhìn nhận  những món nợ mà mình phải trả, và những bài học mà mình phải học hỏi, và đó là một thái độ bất lương. Kẻ nào muốn gạt gẫm hay trốn tránh trách nhiệm, dẫu đó là  những trách nhiệm vật chất hay tinh thần đều không thể gây cho người khác lòng mến phục.

Thói thường, khi người ta không thích một điều gì, người ta hay lý luận một cách  khôn khéo để phủ nhận điều ấy. Đó cũng là một sự tìm cách trốn tránh trách  nhiệm. Nhưng chúng tôi không muốn nói rằng sự dẫn dụ (suggestion) là vô ích.  Trái lại, sự dẫn dụ có thể rất hữu ích để chữa những bệnh trạng thuộc về tâm lý.  Chúng ta đã thấy trường hợp lý thú của một trẻ em bị chứng bệnh đái dầm và  phương pháp dẫn dụ để đánh tan ý thức về tội lỗi in sâu trong tiềm thức, đã chữa  cho cậu bé ấy được khỏi bệnh.

Nếu những nhà chữa bệnh tinh thần muốn chữa các chứng bệnh về nhân quả, thì  phương pháp điều trị là làm cho bệnh nhân thành thực nhìn nhận những tội lỗi cũ;  bày tỏ một ý muốn chân thành cứu chuộc những tội lỗi và sau cùng, tỏ ra một sự cương quyết làm việc phải và hướng thiện theo đường lối ngược chiều với tội lỗi  đã gây ra. Như vậy, các quả báo sẽ dần dần tiêu tan, và bệnh sẽ thuyên giảm.

Nếu chúng ta chấp nhận thuyết Luân Hồi, thì ta phải nhìn nhận rằng nhân loại chưa được tiến hóa cao về phương diện tâm linh, và bởi đó con người phải chịu quả báo xấu xa trong những kiếp tương lai. Nhưng điều đó không làm cho ta quá băn khoăn lo sợ, vì hai lý do:

Một là: “Mỗi ngày chỉ chịu đựng vừa đủ sự khổ nhọc của nó”. Câu tục ngữ này có  nghĩa là: Ta nên sống mỗi ngày một cách bình tĩnh và không nên quá băn khoăn lo lắng. Chẳng những thế, mỗi kiếp sống cũng vậy; dẫu cho ta có bị những khó khăn  đau khổ như thế nào, ta cũng phải sống trọn kiếp của mình với một niềm tin tưởng chắc chắn rằng số phận của mỗi người là rất công bình, và ta có đủ sức chịu đựng mọi điều xảy đến. Không bao giờ ta phải trả một quả báo nào mà ta không đủ sức chịu đựng.

Hai là: Dẫu cho ta có tin ở Luật Nhân Quả hay không, ta cũng phải thấy rằng tương lai là một cái gì mà ta không thể biết một cách chắc chắn. Và ta biết rằng  những tai họa xảy đến cho ta là do lẽ nhân quả báo ứng chứ không phải do sự ngẫu  nhiên tình cờ, thì những nỗi băn khoăn sợ sệt của chúng ta cũng sẽ giảm bớt, vì lý  do giản dị là quả báo xảy đến chỉ do một định luật Công Bằng. Con người thường  hay sợ sệt những tai họa sẽ đến, nhưng nếu một sự việc xảy đến một cách công  bình, để cho ta học một bài học hay mở rộng tầm kiến thức của mình thì đó không  phải là một điều đáng sợ. Một người lương thiện nếu mắc nợ thì lo trả; y làm việc  một cách siêng năng chăm chỉ để trả góp đúng kỳ hạn vào đầu tháng. Y không  phải lúc nào cũng lo lắng sợ sệt cái ngày trả nợ sẽ đến. Y đem hết tinh thần, sức  lực, cố gắng làm việc để có thể trả dứt nợ nần.

Bởi lẽ tầm ý thức của chúng ta có giới hạn, nên chúng ta không biết được rằng  mình đã mắc phải bao nhiêu món nợ quả báo trong thời kỳ dĩ vãng xa xăm. Nhưng  chúng ta nên có cái thái độ thẳng thắn của một người lương thiện, để chấp nhận  những món nợ của chúng ta với một sự thiện chí và thành thật muốn trả nợ.

Sự chấp nhận Luật Nhân Quả và đức tin nơi một sự Công Bằng Thiêng Liêng,  phải là cái thái độ của chúng ta đối với mọi quả báo xảy đến. Trong một Vũ Trụ công bằng, trật tự và tốt lành, mà định luật Luân Hồi đã tiết lộ cho chúng ta thấy,  thì tuyệt nhiên ta không có gì cần phải sợ sệt cả.

***

Tổng hợp sách trong Thư viện trái đất 

Facebook page

ĐỂ LẠI NHẬN XÉT

Please enter your comment!
Please enter your name here