NHỮNG BÍ ẨN CUỘC ĐỜI – CHƯƠNG 3: GIẢI ĐÁP NHỮNG BÍ ẨN ĐỜI NGƯỜI  

0
176

 

CHƯƠNG III  

GIẢI ĐÁP NHỮNG BÍ ẨN ĐỜI NGƯỜI  

Trong khoảng hai mươi năm làm việc chữa bệnh để cứu độ thế gian, ông Edgar  Cayce đã cứu chữa cho hằng nghìn bệnh nhân, và điều này càng xác nhận sự thật  về năng khiếu Thần Nhãn của ông. Với năng khiếu thần thông này, ông Edgar  Cayce nhìn thấu suốt tận trong ngũ tạng lục phủ của người bệnh, và những bộ phận ẩn giấu trong cơ thể con người, mà trong trường hợp thông thường người ta  không nhìn thấy được. Trong nhiều năm sau, người ta mới bắt đầu nghĩ rằng nếu  Thần Nhãn có thể soi thấu vào cơ thể con người, thì chắc nó cũng có thể chuyển  hướng ra bên ngoài Vũ Trụ càn khôn để nhìn thấy những mối liên quan giữa con  người và Vũ Trụ, và tìm sự giải đáp cho những vấn đề bí hiểm của đời người. Việc  đó đã xảy ra trong trường hợp sau đây:

Ông Arthur Lammers, chủ nhân một nhà in lớn ở Dayton, tiểu bang Ohio, có nghe  một người cộng sự với ông nói chuyện về ông Edgar Cayce. Ông lấy làm thích thú  và tò mò đến nỗi ông bèn lên đường đi đến tận nơi để quan sát công việc của ông  Edgar Cayce ở Selma, tiểu bang Alabama, là nơi ông Edgar Cayce đang cư ngụ.  Sau khi đã quan sát những cuộc khám bệnh của ông Edgar Cayce trong nhiều ngày  liên tiếp, ông Lammers mới nhìn nhận sự thật về năng khiếu Thần Nhãn của ông  này. Ông Lammers là một người thông minh và có kiến thức rộng. Ông bèn nghĩ rằng nếu một người có nhãn quan nhìn thấy những sự vật ẩn giấu đối với cặp mắt  người phàm, thì người ấy chắc có thể làm sáng tỏ những vấn đề rộng lớn hơn về Vũ Trụ và nhân sinh, chứ không phải chỉ nhìn thấy có sự hoạt động của lá gan hay  bộ máy tiêu hóa của người bệnh mà thôi. Ví dụ như: Trong tất cả mọi ngành triết  học và tôn giáo, thì ngành nào gần nhất với Chân Lý? Mục đích của đời người là  gì? Thuyết cho rằng linh hồn con người vốn bất diệt có đúng hay không? Nếu là  đúng, sau khi chết, con người sẽ đi về đâu? Thần Nhãn của ông Edgar Cayce có  thể đem đến sự giải đáp cho những vấn đề ấy chăng?

Ông Edgar Cayce không hề biết một chút gì về những vấn đề ấy. Những vấn đề trừu tượng về linh hồn và mục đích của cuộc đời … không hề thoáng qua trong ý  nghĩ của ông. Ông chỉ chấp nhận một cách âm thầm những giáo lý mà người ra  giảng cho ông ở Nhà Thờ; mọi sự thảo luận hoặc so sánh những giáo lý đó với  triết học, khoa học và các tôn giáo khác đều hoàn toàn xa lạ đối với ông.

Sở dĩ ông đã chịu sự dẫn dụ trong những giấc ngủ thôi miên là vì do lòng mong  muốn giúp đỡ những kẻ bệnh tật đau khổ. Ông Lammers là người đầu tiên đã nghĩ đến việc dùng Thần Nhãn của ông vào những mục đích khác hơn là chữa bệnh cho  nhân loại, và điều này càng làm gia tăng lòng hứng khởi của ông Edgar Cayce.  Trong những giấc thôi miên, ngoại trừ một vài trường hợp ngoại lệ rất hiếm, ông  đã luôn luôn trả lời và giải đáp đúng những câu hỏi nêu ra. Vậy thì không có lý do gì mà ông không thể giải đáp luôn cả những câu hỏi của ông Lammers về các vấn  đề Vũ Trụ nhân sinh khác hơn là vấn đề chữa bệnh.

Ông Lammers vì bận công việc kinh doanh không thể kéo dài thời gian ở Selma,  nên ông yêu cầu ông Edgar Cayce hãy về ở tại nhà ông ở Dayton trong vài tuần.  Ông Edgar Cayce bằng lòng với ý nghĩ rằng có lẽ Đấng Thiên Liêng muốn kêu gọi  ông vào những công việc phụng sự khác nữa. Gần đây ông Lammers có chú ý đến  khoa Chiêm Tinh. Ông nghĩ rằng nếu khoa Chiêm Tinh đúng với Chân Lý, thì đó  có thể là một ngành khoa học nối liền con người và Vũ Trụ mà chúng ta có thể hiểu được rõ ràng. Ông bèn có ý định bắt đầu thí nghiệm Thần Nhãn của ông  Edgar Cayce về khoa này.

Một ngày nọ vào tháng 10 năm 1923, khi ông Edgar Cayce nằm trong giấc ngủ thôi miên trong một gian phòng khách sạn Phillips ở Dayton, thì người ta dẫn dụ cho ông hãy lấy một lá số Chiêm Tinh cho ông Lammers. Tuân theo như thường lệ những lời dẫn dụ mà ông nhận được, ông Edgar Cayce bèn đưa ra những chi tiết về lá số của ông Lammers bằng một vài câu vắn tắt. Và sau cùng, cũng một lối  hành văn ngắn ngủi, vắn tắt như thế ông nói một câu lạ lùng: “Thuở xưa y là một  tu sĩ”. Câu nói tuy vắn tắt, nhưng đối với ông Lammers là người đã từng đọc nhiều  và đã từng quen thuộc với những lý thuyết quan trọng về nhân sinh và định mệnh  con người, câu nói ấy làm cho ông giật mình chẳng khác nào như bị điện giật!

Phải chăng câu ấy có nghĩa là Thần Nhãn của ông Edgar Cayce đã xác nhận như một sự thật hiển nhiên cái giả thuyết cổ xưa về vấn đề Luân Hồi?

Thay vì làm thỏa mãn sự tò mò của ông Lammers, cuộc khám nghiệm đó lại càng  làm cho ông tọc mạch muốn biết thêm. Khi ông Edgar Cayce thức tỉnh, ông thấy  ông Lammmers đang bàn luận sôi nổi với cô thư ký Linden Shroyer về những lời  nói của ông vừa rồi. Ông Lammers tuyên bố rằng nếu người ta có thể chứng minh  thuyết Luân Hồi là có thật, thì điều đó sẽ làm đảo lộn và thay đổi tất cả những  quan niệm đã có từ trước về triết học, tôn giáo, và Tâm Lý Học! Nếu ông Edgar  Cayce cứ tiếp tục thí nghiệm của ông sẽ có thể tiết lộ cho ta thấy rõ ràng luật Luân  Hồi hành động bằng cách nào. Ví dụ như những mối liên hệ giữa Luân Hồi và  khoa Chiêm Tinh là như thế nào? Hai điều trên đây sẽ giải thích bằng cách nào về linh hồn, về định mệnh, và về đời sống con người?

Ông Lammers bèn khẩn khoản yêu cầu, làm ông Edgar Cayce lấy làm lưỡng lự phân vân, nhưng ông vẫn nhận lời tiếp tục những cuộc khám nghiệm. Những câu  hỏi của ông Lammers đưa ra đã được giải đáp một cách đúng đắn và với đầy đủ chi tiết về những tiền kiếp của ông, cùng những vấn đề bí hiểm của đời người mà  ông bắt đầu khảo cứu tìm tòi. Theo những cuộc khám nghiệm đó, khoa Chiêm  Tinh có chứa đựng một phần nào sự thật. Thái Dương Hệ đưa đến cho linh hồn  đang tiến hóa một cơ hội học hỏi kinh nghiệm trong một chu kỳ nhất định. Con người thu thập kinh nghiệm ở cõi trần và trên những cõi vô hình khác, mà thuở xưa người ta gọi bằng tên các tinh cầu làm trung tâm điểm cho những cõi ấy. Tuy  nhiên, khoa Chiêm Tinh mà người ta được biết và thực hành trong thời buổi hiện  tại, chỉ là gần đúng với sự thật mà thôi, chứ không phải là hoàn toàn đúng, bởi vì  có nhiều yếu tố ẩn tàng mà người đời chưa khám phá ra được một cách đầy đủ trọn vẹn.

Những điều đó thật là lạ lùng đối với ông Edgar Cayce, nhưng sự tò mò khiến ông  cứ tiếp tục những cuộc khám nghiệm mà ông Lammers yêu cầu. Họ tự nghĩ rằng  những tài liệu mà họ muốn biết về những tiền kiếp sẽ được đầy đủ hơn nếu họ đừng đòi hỏi lấy một “Lá số” và nếu ông Edgar Cayce nhận một sự dẫn dụ thích  nghi hơn. Bởi đó người ta mới đề nghị rằng trong giấc thôi miên, ông Edgar Cayce  hãy đưa ra một lối dẫn dụ thích nghi. Và đây là lối dẫn dụ mà ông Edgar Cayce đã  đưa ra:

“Ông sẽ đứng trước mặt (tên của một người nào đó), sinh ngày … tại … Ông sẽ nói  cho biết thân thế và sự nghiệp của y và vai trò của y trong Vũ Trụ là như thế nào,  cùng những khuynh hướng và khả năng của y trong kiếp hiện tại. Ông cũng cho  biết những tiền kiếp của y ra sao với những chi tiết về tên tuổi, xứ sở và thời kỳ nào y đã trải qua những tiền kiếp đó. Và ông cũng cho biết luôn những nguyên  nhân nào trong mỗi kiếp đã giúp đỡ hoặc làm trì trệ sự tiến hóa của y trong kiếp  này”.

Từ đó những cuộc khám nghiệm đều nhằm rõ rệt vào những tiền kiếp của đương  sự. Những cuộc khám nghiệm này được gọi bằng danh từ soi kiếp, để phân biệt  với danh từ khám bệnh, chỉ nhằm khám nghiệm thể xác của bệnh nhân vì mục  đích chữa bệnh mà thôi. Đối với hai loại khám nghiệm kể trên, ông đều áp dụng  một phương pháp giống như nhau, trừ một chi tiết này, là mỗi khi ông Edgar  Cayce tuần tự soi kiếp cho nhiều người liên tiếp nhau thì ông bắt đầu cảm thấy  chóng mặt dữ dội. Chính ông cũng tự khám nghiệm lấy mình để tìm ra nguyên  nhân sự chóng mặt, thì ông được cho biết rằng cần phải đổi chiều hướng và quay  đầu về hướng Bắc, chân về hướng Nam trong những cuộc soi kiếp. Còn lý do vì  sao cần phải thay đổi chiều hướng như thế, thì không thấy giải thích, mà chỉ thấy  nói rằng đó là một vấn đề thuận dòng “Tự điển”.

Những cuộc soi kiếp cho chính ông Edgar Cayce tiết lộ rằng cách đây nhiều thế kỷ, ông đã từng làm một vị cao tăng ở các đền cổ ở bên Ai Cập và có nhiều quyền  phép thần thông, nhưng ông đã bị vấp ngã vì tính kiêu căng và thói ưa sắc dục.  Trong một tiền kiếp ở Ba Tư, ông làm một y sĩ. Trong một kiếp khác, có lần ông  bị thương trong một trận chiến trên sa mạc và bị bỏ sót lại trên bãi cát, vì những  người đồng đội tưởng rằng ông đã chết. Nằm một mình, không có nước uống,  không lương thực và không một mái che ông đã chịu khổ rất nhiều trong ba ngày  ba đêm đến nỗi ông đã làm một cố gắng rất lớn để xuất thần ra khỏi thể xác của ông. Ông đã xuất thần được và chính nhờ việc ấy một phần nào mà ngày nay ông  có cái khả năng tự thoát ly ra khỏi những giới hạn của thể xác. Tất cả những đức  tính và thói xấu của ông hiện thời đều được cân nhắc đúng đắn và đều có thể truy  nguyên ra ở những kinh nghiệm trong các kiếp trước. Cuộc đời hiện tại là một sự thử thách cho linh hồn ông; ông đã có cơ hội phụng sự nhân loại một cách vị tha,  để cứu chuộc những tội lỗi trong quá khứ, là thói kiêu căng, đam mê vật chất và ưa  thích điều sắc dục.

Ông Lammers nghĩ rằng những cuộc soi kiếp của ông Edgar Cayce có một tầm  quan trọng rất lớn, và bởi đó người ta cần thực hiện những cuộc sưu tầm rộng lớn  hơn về vấn đề này. Ông yêu cầu ông Edgar Cayce hãy đem gia quyến từ Selma về ở Dayton và đề nghị chịu đài thọ mọi khoản tổn phí về sinh hoạt cho cả gia đình  ông, gồm cả bà Edgar Cayce, cùng hai người con trai và cô bí thư Gladys Davis,  cô này từ đó đã trở nên một người thân tín trong gia dình ông. Cả gia đình đều  bằng lòng chấp thuận. Khi họ được cho biết về những sự gì xảy ra, thì họ đều có  sự phản ứng giống như ông Edgar Cayce: Lúc đầu họ còn ngạc nhiên và nghi ngại,  kế đó họ càng trở nên tò mò muốn biết sự thật và sau cùng họ đều lấy làm thích  thú cho đến say mê. Ông Edgar Cayce bèn soi kiếp cho mỗi người trong gia đình  ông. Trong mỗi trường hợp, tâm tính của mỗi người đều được diễn tả một cách  công khai và ông cho biết rằng mỗi thói hư tật xấu và mỗi đức tính tốt đều có  nguyên nhân trong những tiền kiếp. Trong cuộc soi kiếp cho một người con trai  ông, ông nói: “Trong bốn tiền kiếp con là một nhà khảo cứu khoa học, con đã trở nên có óc duy vật, ích kỷ và vụ lợi”. Soi kiếp cho một người con khác ông nói:  “Con có tính rất nóng nảy; thói xấu đó đã gây cho con nhiều điều bất lợi trong  những tiền kiếp ở Ai Cập và ở Anh Quốc. Kiếp này con nên tập lấy sự tự chủ và  tính kiên nhẫn”.

Những sự diễn tả tính tình đó đều hoàn toàn đúng đắn và chân thật, dẫu cho đương  sự là những người thân thích hay những người xa lạ như ông Lammers, cô Linden  Shroyer và những người bạn của ông Lammers, và điều đó càng làm cho ông này  thêm phần hứng khởi và tin tưởng.

Nhưng ông Edgar Cayce vẫn cảm thấy thắc mắc về những điều tiết lộ đó, đến nỗi  ông đâm ra nghi ngờ về ông và ông đã tự kiểm thảo lương tâm một cách ráo riết.  Sau cùng ông đi đến kết luận rằng ông có thể tin cậy nơi năng khiếu Thần Nhãn  của mình, bằng những cuộc khám bệnh và soi kiếp, ông đã làm một công việc  phụng sự chính đáng và thiêng liêng chớ không phải là một điều tà bậy. Nhưng  những điều tiết lộ của ông lại là những điều quá mới lạ và dường như … “Phản  đạo” làm sao ông có thể tin chắc rằng đó là đúng với sự thật?

Sự băn khoăn của ông có thể hiểu được dễ dàng: Ông vốn sinh trưởng trong một  gia đình Cơ đốc giáo khắt khe và chính thống. Ông không hề được biết một chút gì  về những giáo lý của các tôn giáo lớn trên thế giới. Trong lúc này, ông vẫn không biết gì về phần nhiều những điểm tương đồng giữa đạo Cơ đốc với những tôn giáo  khác, và ông chưa từng có dịp thưởng thức cái ánh sáng đạo lý nó chiếu soi trong  những ngọn đèn khác hơn là ngọn đèn Cơ đốc của mình. Ông hoàn toàn dốt về giáo lý căn bản của Ấn giáo và Phật giáo nói về vấn đề Luân Hồi.

Hơn nữa, danh từ này đối với ông, không được hấp dẫn cho lắm, vì người ta  thường có một quan niệm sai lầm về thuyết Luân Hồi. Họ tưởng rằng theo thuyết  ấy thì những người tội lỗi sau khi chết, có thể đầu thai trở lại làm kiếp thú, như làm thân trâu ngựa … Chính những cuộc soi kiếp đã giải tán những sự nghi ngờ này cho ông Edgar Cayce. Trong những cuộc khám nghiệm các tiền kiếp, ông  Edgar Cayce được biết rằng Luân Hồi không phải là đầu thai trở lại làm thú vật; và  không phải là một điều mê tín dị đoan. Đó là một giáo lý có căn bản vững vàng về phương diện tôn giáo và triết học. Có hằng triệu người trí thức ở Ấn Độ và ở các  xứ Phật giáo tin tưởng nơi thuyết ấy một cách sáng suốt thông minh, và lấy đó làm  nền tảng cho mọi cách xử thế trong đời sống hằng ngày của họ. Tự nhiên là có  nhiều môn phái ở Ấn Độ và ở các nước Á châu cũng chủ trương thuyết Thoái Bộ Luân Hồi (metempsychose), tức là con người có thể tái sinh làm kiếp thú, nhưng  đó chỉ là một sự chủ trương sai lầm về thuyết Luân Hồi. Vài tôn giáo cũng có  những quan niệm lệch lạc về thuyết này, nhưng ta không nên để cho những sự hiểu lầm và thiên lệch đó khép chặt trí óc của ta đối với một điều Chân Lý căn bản  và trọng đại.

Ông Lammers có thể bổ túc những điều được tiết lộ trong những cuộc soi kiếp.  Ông giải thích rằng Luân Hồi có nghĩa là Tiến Hóa: Sự tiến hóa của linh hồn con  người trải qua nhiều kiếp đầu thai liên tiếp ở cõi trần, khi thì đầu thai làm đàn ông,  khi thì làm đàn bà; khi thì làm thường dân, khi thì làm vua chúa; kiếp này đầu thai  làm giống dân này, kiếp kia làm giống dân khác … Cho đến khi linh hồn đạt tới  mức hoàn thiện. Linh hồn con người cũng ví như một anh tài tử sân khấu đóng  nhiều vai trò khác nhau và mặc những bộ y phục khác nhau từ đêm này qua đêm  khác. Hoặc cũng ví như ta mặc một cái áo bằng vải trong một thời gian, và khi nó  đã cũ, thì vứt bỏ để đổi lấy một cái áo khác. Nhiều bậc hiền triết và các nhà thông  thái, trí thức siêu việt của Tây phương cũng đã chấp nhận thuyết Luân Hồi và đã  viết nhiều sách vở về vấn đề này, trong số đó có Pythagore, Platon, Plotin,  Giordanno Bruno, Goethe, Whitman, Emerson, và Schopenhauer.

Ông Edgar Cayce bày tỏ ý kiến: “Những điều đó hẳn là đúng sự thật hiển nhiên  rồi; nhưng còn đạo Cơ đốc thì sao? Nếu tôi chấp nhận thuyết Luân Hồi thì phải  chăng điều đó có nghĩa là tôi phủ nhận Đức Jesus. Một luật gia trong số những  người Pharisiens đã đưa ra câu hỏi đó cho Đức Jesus, và Ngài đáp rằng: “Ngươi  hãy kính yêu Chúa ngươi hết lòng và hết cả tâm hồn. Và ngươi hay thương yêu kẻ đồng loại của ngươi như ngươi vậy. Hai điều răn đó là tất cả giáo luật và lời dạy  của các nhà Tiên Tri” (Mathieu 22, 35-40)

Những lời dạy giản dị và sâu xa về tình bác ái đó có khác gì với lời dạy về sự tiến  hóa và thuyết Luân Hồi? Và nó có khác gì với những giáo lý của bất cứ tôn giáo  nào trên thế giới? Đức Phật đã dạy: “Ngươi đừng làm hại kẻ khác nếu ngươi  không muốn kẻ khác làm hại mình”. Và những Thánh Kinh của Ấn giáo cũng dạy  rằng: “Ngươi đừng làm điều gì cho người khác mà ngươi không muốn người khác  làm cho ngươi”.

Ấn giáo cũng như Phật giáo, đều không thấy có cái sự khác biệt, dị đồng giữa luật  bác ái và luật tiến hóa tâm linh mà người ta gọi là Luân Hồi. Những tôn giáo ấy  chỉ nhấn mạnh ở luật Luân Hồi nhiều hơn mà thôi, chớ không cho rằng hai luật ấy  tương phản nhau. Nhưng ông Edgar Cayce vẫn chưa chịu thuyết phục. Năm lên 10  tuổi, người ta đã cho ông đọc bộ Thánh Kinh (Bible) và ông rất lấy làm say mê.  Từ đó, ông nhất định đọc lại bộ sách ấy mỗi năm một lần suốt đời ông. Trong  những năm ấy, ông không hề thấy một lần nào trong sách đó có chữ Luân Hồi.  Vậy thì tại sao bộ Thánh Kinh, và điều quan trọng hơn nữa, là Đức Jesus lại không  hề nói đến vấn đề này?

Ông Lammers nghĩ rằng: “Có lẽ Đức Jesus có nói về vấn đề Luân Hồi”.

Trước hết, ta nên nhớ rằng Đức Jesus đã truyền dạy cho các vị môn đồ nhiều giáo  lý mà Ngài không đem giảng dạy cho quần chúng. Và dẫu cho Ngài có dạy thuyết  Luân Hồi cho một số đông người, ta đừng quên rằng trải qua nhiều thế kỷ, phần  chính giáo của Ngài đã chịu nhiều sự biến thiên dời đổi do những sự diễn đạt của  người đương thời và do sự phiên dịch qua nhiều thứ tiếng. Bởi vậy, có thể rằng  nhiều giáo lý nguyên thủy của Ngài đã bị thất truyền. Tuy nhiên, ở một vài đoạn  trong Thánh Kinh, người ta thấy có sự ngụ ý về vấn đề Luân Hồi. Đức Jesus có lần  nói với các môn đồ rằng Thánh Jean-Bastiste tức là Elie tái sinh (Mathieu 17, 12- 13). Ngài không có dùng chữ Luân Hồi tái sinh, nhưng Ngài lại nói một cách rõ  ràng không úp mở, rằng “Elie đã trở lại … ”. Và khi đó các môn đồ hiểu rằng Ngài  nói với họ về Thánh Jean-Bastiste. Trong một đoạn khác, các môn đồ hỏi Ngài về  một người mù: “Thưa Thầy, ai đã gây tội lỗi? Chính người này hay là cha mẹ y đã  phạm tội, khiến cho y sinh ra đã bị mù?” Nhiều đoạn khác trong Thánh Kinh cũng  ám chỉ, hoặc hàm xúc ý nghĩa về Luân Hồi. Ta hãy đọc trong thiên Apocalypse,  Chương mười ba, câu thứ mười: “Kẻ nào cầm tù kẻ khác sẽ bị kẻ khác cầm tù; kẻ nào sử dụng gươm đao sẽ chết vì gươm đao”.

Câu ấy ám chỉ ra rằng có một Luật Nhân Quả hành động từ kiếp này sang kiếp  khác. Có điều chắc chắn là phe chính thống của Cơ đốc giáo đã dần dần góp nhặt  và tu chỉnh những phần giáo lý của Đức Jesus không có nói về vấn đề Luân Hồi;  nhưng làm sao người ta có thể chắc chắn rằng sự diễn đạt và chọn lọc của phe  chính thống đối với những giáo lý nguyên thủy là hoàn toàn vô tư và không thiên  lệch? Nghiên cứu tiểu sử các vị cố đạo Cơ đốc thời cổ, người ta thấy có nhiều vị trong số đó đã nhìn nhận thuyết Luân Hồi trong những tác phẩm của họ, và đã  công khai giảng dạy thuyết ấy, như Origene, Jutin, Thánh Jerome, Clement  Alexandrie, Plotin và nhiều vị khác nữa.

Những vị này đã từng sống vào thời kỳ gần với thời đại của Đức Jesus. Phải chăng  các vị ấy đã biết và truyền bá những phần giáo lý bí truyền có từ nghìn xưa, mà  Đức Jesus chỉ dạy riêng cho 12 vị tông đồ thân tín của Ngài mà thôi?

Theo ông Lammers, thì Đức giám mục Mercier tuy không tin tưởng nơi thuyết  Luân Hồi, nhưng đã tuyên bố rằng thuyết ấy không trái với những giáo điều căn  bản của đạo Cơ đốc.

Những điều kể trên đã giải tán bớt những nỗi thắc mắc băn khoăn của ông Edgar  Cayce, vì ông đã tưởng rằng ông dùng những quyền năng lạ lùng của mình một  cách trái đạo, tức là tương phản với tôn giáo gốc của ông. Ngoài ra, ông cũng còn  có một vài điểm thắc mắc nghi ngờ về quyền năng của mình, nhưng điều này lại  có một tính cách khoa học. Một ví dụ: Làm sao giải thích sự gia tăng dân số lớn  lao trên thế giới hiện nay nếu người ta chấp nhận rằng tất cả những linh hồn đều  đã có sống trên mặt đất? Vậy thì số sai biệt phụ trội đó ở đâu mà ra? Tất cả gia  đình ông Edgar Cayce, cùng ông Lammers, các cô bí thư Gladys Davis và Linden  Shroyer đều thường họp mặt trong phòng khách để thảo luận về những vấn đề ấy.  Khi tất cả mọi người đều cạn ý kiến, thì người ta mới nhớ đến sự khám nghiệm  bằng năng khiếu Thần Nhãn của ông Edgar Cayce để tìm ra sự giải đáp; và khi  những cuộc khám nghiệm đó có những điều đáng ngờ vực, thì họ tham khảo tài  liệu ở các sách báo trong thư viện quốc gia.

Nói về vấn đề gia tăng dân số trên thế giới, thì tìm ra câu giải đáp cũng không phải  là một điều khó. Một người trong nhóm nói rằng: Dẫu sao, chúng ta có chắc rằng  quả thật có sự gia tăng dân số hay không? Những cuộc khám nghiệm đã qua có nói  về những nền văn minh cổ xưa ở Ai Cập, và ở châu Atlantis nay đã biệt tích. Ở Cambodia, Mêxicô, Ai Cập và ở các xứ Đông phương, những tàn tích khảo cổ đã  xác nhận rằng những nền văn minh lớn cổ xưa đã từng xuất hiện trên những vùng  lãnh thổ rộng lớn, mà ngày nay chỉ còn là những bãi sa mạc. Như thế người ta có  thể quan niệm được rằng ở vào những thời kỳ khác nhau trong lịch sử, có những  lúc mà dân số trồi sụt không đồng đều, nhưng vẫn không hề thay đổi linh hồn  trong Vũ Trụ. Có thể rằng hằng triệu linh hồn vẫn phảng phất trên các cõi vô hình  trong những thời kỳ mà hoàn cảnh không thuận tiện cho họ đầu thai xuống cõi  trần.

Tuy ông Edgar Cayce vẫn có óc hoài nghi, nhưng ông đã hài lòng về câu giải đáp  hữu lý trên đây. Nhưng còn châu Atlantis cũng lại là một vấn đề nan giải khác  nữa. Làm sao chúng ta có thể biết rằng châu Atlantis là có thật? Hay đó chỉ là  chuyện hoang đường? Những cuộc khám nghiệm bằng Thần Nhãn của ông Edgar Cayce đã đưa ra câu giải đáp cho vấn đề ấy một cách tường tận tỉ mì và với rất  nhiều chi tiết.

Nhà triết học Platon là người đầu tiên ở phương Tây đã tường thuật sự hiện diện  của châu Atlantis, nay đã chìm dưới đáy biển Đại Tây Dương. Và mặc dầu quần  chúng ngày nay không chý ý đến, nhưng những nhà địa chất học cũng đã từng  quan tâm về vấn đề này. Họ vẫn không đồng ý với nhau, người thì phủ nhận, kẻ thì quả quyết sự hiện diện của châu Atlantis. Dẫu sao có một số lớn sách vở của  những tác giả uyên bác đã nói đến vấn đề này và đã đưa ra rất nhiều bằng chứng  lịch sử, văn hóa và khoa học, bổ trợ lẫn nhau. Ông Edgar Cayce đã đọc một quyển  nhan đề “Châu Atlantis, một thế giới của thời kỳ tiền sử” của tác giả Ignatius  Donnelly, và rất ngạc nhiên mà nhận thấy rằng những cuộc khám nghiệm của ông  đã diễn tả đúng y như những bằng chứng căn bản nêu trong quyển sách ấy.

Những cuộc thảo luận và khảo cứu tài liệu ở các sách vở về lịch sử, khoa học, tôn  giáo, đạo lý cổ truyền, về châu Atlantis và về khía cạnh tâm lý của khoa thôi miên,  là những vấn đề đã được nêu ra trong các cuộc khám nghiệm bằng Thần Nhãn, đã  giúp cho ông Edgar Cayce có được một tầm kiến thức rộng rãi về văn hóa và lịch  sử mà ông vẫn thiếu sót. Dần dần, ông bớt sợ hãi và thắc mắc về những điều mà  ông thốt ra trong giấc ngủ thôi miên, ông cảm thấy rằng những điều ấy có thể chứa  đựng một phần nào sự thật. Với một sự tọc mạch xen lẫn với một khối óc phê  bình, ông bắt đầu phân tích những cuộc khám nghiệm để kiểm soát cho nó được  hoàn toàn đúng đắn. Trước hết ông nhận thấy rằng những cuộc khám nghiệm ấy  đều có mạch lạc và liên đới lẫn nhau. Không bao giờ một cuộc khám nghiệm này  lại tương phản với một cuộc khám nghiệm khác, dẫu là cách nhau bao xa cũng  vậy. Bởi đó, một người có thể được khám nghiệm một lần thứ nhì, nhiều tháng  hoặc nhiều năm sau lần thứ nhất. Những tài liệu đều ăn khớp với nhau và nối tiếp  nhau một cách đúng đắn, chẳng khác nào như người ta lật một quyển sách ở chỗ trang đã được làm dấu sẵn, để đọc tiếp theo đoạn sách đã bỏ dở kỳ trước. Phần  nhiều những cuộc soi kiếp đưa ra những tài liệu tổng quát về những thời kỳ cổ xưa, như ở Ai Cập và châu Atlantis.

Khi người ta đem đối chiếu những cuộc soi kiếp đó với nhau, thì thấy rằng những  chi tiết rời rạc và thiếu sót đã bổ khuyết lẫn nhau và trở nên hoàn bị hơn. Mỗi cuộc  soi kiếp lập lại một phần những gì đã được nói ra trong một lần trước, hoặc thêm  vào một chi tiết mới cho toàn thể câu chuyện.

Các cuộc soi kiếp không chỉ hòa hợp lẫn nhau, mà còn xác nhận lẫn nhau trên  nhiều điểm về những sự việc được ghi chép trong lịch sử, dẫu đó là những sự việc  bí ẩn tối tăm, thuộc về phần ngoại sử. Ví dụ: Một trong những cuộc soi kiếp nói  rằng một người nọ, trong một tiền kiếp, đã từng làm một người “Phóng ghế”. Ông  Edgar Cayce không hề biết “Phóng ghế” nghĩa là gì, và khi tra cứu tự điển, ông  mới thấy rằng danh từ đó ám chỉ một phong tục cổ xưa của dân miền Bắc Mỹ:

Người ta trói những mụ phù thủy trên những chiếc ghế đẩu và cầm chân ghế chổng ngược để nhận chìm họ xuống ao nước lạnh.

Một ví dụ khác: Trong cuộc soi kiếp cho một người thanh niên, ông Edgar Cayce  nói rằng trong một kiếp trước, y đã sống ở bên Pháp, tại đây y gặp gỡ và làm bạn  với nhà bác học Mỹ Robert Fulton và đã giúp đỡ người này trong việc thực hiện  một vài phát minh khoa học. Ông Edgar Cayce biết rõ Robert Fulton nhưng ông  không tin rằng ông này đã sống ở nước ngoài, ngoại trừ nước Mỹ. Sau khi tra cứu  một quyển tự điển về tiểu sử các nhân vật ông mới biết rằng ông Fulton đã có ở bên Pháp nhiều năm, và đã được nhiều người quen biết giúp đỡ và khuyến khích  trong ngành hoạt động của ông.

Ngoài những sự xác nhận lịch sử lạ lùng nói trên về những tiền kiếp, còn có rất  nhiều bằng chứng khác về kiếp hiện tại. Ông Edgar Cayce biết rằng những sự phân  tích tâm lý trong những cuộc soi kiếp của ông đều đúng, không những đối với ông  và những người trong gia đình, mà cũng đúng đối với những người hoàn toàn xa  lạ. Trong những cuộc soi kiếp cũng như trong những cuộc khám bệnh, dẫu cho  đương sự có quen biết hay không đối với ông Edgar Cayce, điều đó không có quan  hệ gì cả. Họ có thể là những người hoàn toàn xa lạ hoặc ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Nếu ông có được đầy đủ tên họ, ngày sinh và nơi sinh của những người ấy,  ông có thể diễn tả một cách đúng đắn những hoàn cảnh hiện tại cùng những điều  bí ẩn trong tâm tính của họ. Ông cũng nói luôn cả những đức tính, khả năng cùng  những khuyết điểm của họ, và truy nguyên ra tất cả những điều đó ở các tiền kiếp.

Những cuộc soi kiếp cũng đúng dưới một khía cạnh khác. Ông Edgar Cayce đã có  thể kiểm điểm lại những điều mà cuộc soi kiếp đã tiết lộ về tính chất và khả năng  nghề nghiệp tương lai của những đứa trẻ con. Một cuộc soi kiếp ngày sinh của một  đứa trẻ tại Norfolk cho biết rằng sau này nó sẽ là một đứa trẻ bướng bỉnh, cứng  đầu và khó dạy. Khi nó lớn lên, những tính nết đó càng ngày càng biểu lộ một  cách rõ rệt, và cha mẹ nó cũng không thể làm cách nào để sửa đổi được.

Trong trường hợp lý thú hơn nữa là của một đứa trẻ khác mà cuộc soi kiếp cho  biết rằng về sau nó có thể trở nên một y sĩ có tài. Những thói xấu mà cuộc soi kiếp  trước cũng đã bắt đầu biểu lộ sớm, cùng một lượt với sự thích thú đặc biệt về ngành y học. Vào năm tám tuổi, cậu ấy đã bắt đầu mổ xác những con thú đã chết  để xem cơ thể bên trong con thú như thế nào. Chưa đầy mười tuổi, cậu ấy đã xem  một cách say mê những bộ sách tự điển Y Khoa, và năm mười hai tuổi, cậu cho  cha mẹ biết rằng mình có ý muốn sẽ vào trường Đại Học John Hopkins để theo  ngành Y khoa. Cha của đứa trẻ là một nhà kinh doanh thương mại ở New York;  mẹ y là một nữ tài tử. Lúc đầu, cha mẹ cậu đều phản đối ý định học Y khoa của  cậu và khuyên hãy bỏ ý định ấy. Nhưng đứa trẻ cương quyết giữ lập trường và sau  cùng đã thắng mọi trở lực. Hiện nay cậu ấy đang học lớp dự bị về khoa Lý Hóa  Sinh tại một trường Đại Học lớn ở miền Đông Hoa Kỳ. Trường hợp này chứng tỏ một lần nữa về năng khiếu Thần Nhãn thật sự của ông Edgar Cayce, vì ông đã nhìn thấy kiếp trước của đứa trẻ và chắc chắn rằng những khả năng đặc biệt của  cậu sẽ biểu lộ ra ở kiếp này.

Những ví dụ kể trên chỉ ra rằng những cuộc soi kiếp của ông Edgar Cayce có một  giá trị rất lớn về sự tiên đoán tương lai, không những của trẻ sơ sinh mà cũng của  những người lớn. Một cô điện tín viên ở bưu điện thành phố New York lấy làm vô  cùng ngạc nhiên về những bức điện tín lạ lùng mà cô đã đánh đi nhiều lần về Virginia Beach. Cô ấy mới hỏi thăm về ông Edgar Cayce và quyết định yêu cầu  ông soi kiếp cho cô. Nhờ đó, cô biết rằng cô sẽ theo đuổi nghề nghiệp điện tín  viên, và tốt hơn cô nên học về ngành vẽ quảng cáo, vì trong nhiều kiếp trước, cô  đã là một nghệ sĩ có tài về ngành này. Cô ấy không hề có ý nghĩ theo đuổi một  nghệ thuật nào, dẫu là kỹ nghệ họa hay bất cứ ngành nào khác, nhưng cô ấy có đủ can đảm để học thử và xin ghi tên học ở một trường nọ. Cô lấy làm vô cùng ngạc  nhiên mà thấy rằng cô có năng khiếu và đã thành công rất mau chóng với ngành  kỹ nghệ họa, đồng thời cô cũng được cải tiến rất nhiều về nhân cách của mình.

Với thời gian trôi qua, ông Edgar Cayce càng nhận thấy rằng những cuộc soi kiếp  của ông đã giúp ích cho rất nhiều người. Ông càng vững đức tin hơn trước, khi  thấy rằng công việc của ông làm là chính đáng vì nó gây nên những kết quả tốt  đẹp. Có nhiều người được hướng dẫn theo những nghề nghiệp thích hợp với họ;  những người khác nhận được những lời chỉ bảo giúp san bằng mọi khó khăn trong  đời sống gia đình; những người khác nữa đã tìm cách tự biết mình và tập hòa mình  một cách thích nghi với đời sống xã hội.

Những điều kể trên đã dần thuyết phục ông Edgar Cayce về tính cách chân thật và  xác đáng của những cuộc soi kiếp bằng Thần Nhãn cũng như của sự giải thích mà  nó đưa ra về định mệnh của con người. Nhưng điều làm cho ông tin tưởng hơn hết  là cái tinh thần Cơ đốc giáo thâm sâu, tiềm tàng trong những điều mà cuộc soi kiếp  đã tiết lộ cho ông biết; và hơn nữa, cái tinh thần Cơ đốc giáo đó lại được đưa ra  một cách dễ dàng và thích nghi trong khuôn khổ của thuyết Luân Hồi.

Một cuộc soi kiếp ít khi nào mà không nêu ra một đoạn sách trong Thánh Kinh  hay một điều giảng dạy của Đức Jesus. Những câu dẫn chứng thông thường nhất  là những lời dạy của Đức Jesus như sau: “Ngươi sẽ gặt hái những gì ngươi đã  gieo” và “Hãy làm cho kẻ khác những gì ngươi muốn kẻ khác làm cho ngươi”. Đôi  khi đó là những câu chú thích theo đúng nguyên văn hoặc phác họa thêm ít nhiều  tư tưởng theo nguyên văn, chẳng hạn như: “Ngươi chớ lầm lạc: Không ai có thể kiêu ngạo trước mặt Chúa Trời! Vì ai gieo giống nào sẽ gặt giống nấy”. Và: “Con  người luôn luôn là cái hậu quả của chính mình. Ngươi hãy làm điều lành cho  những kẻ đã phỉ báng nhục mạ ngươi, rồi ngươi sẽ cứu chuộc được những điều tội  lỗi mà chính ngươi đã gây ra cho kẻ khác”.

Những lời dẫn chứng kể trên là để răn dạy những người bị bệnh tật đau khổ, do  hậu quả của những điều tội lỗi mà họ đã gây ra trong một kiếp trước.

Khi sự hứng khởi nồng nhiệt lúc ban đầu đã lắng dịu, thì nhóm người xung quanh  ông Edgar Cayce mới bắt đầu đặt những câu hỏi về những điều đã tiết lộ trong các  cuộc soi kiếp của chính họ. Trước hết họ muốn biết tại sao có một vài thời kỳ trong lịch sử luôn luôn tái diễn trở đi trở lại trong các cuộc soi kiếp. Nhiều người  lại có chung một bối cảnh lịch sử giống như nhau; nói tóm lại, những điều diễn tả trong các cuộc soi kiếp hình như đều rập theo một khuôn khổ. Các cuộc soi kiếp  thường nêu ra một loạt các thời kỳ sau đây: Thời đại châu Atlantis, Đế Quốc La  Mã, Thời kỳ Thánh Chiến (Croisades) và lúc khởi đầu thời kỳ khai mở thuộc địa ở Bắc Mỹ. Một loạt khác gồm có: châu Atlantis, Ai Cập, La Mã, nước Pháp thời  Louis 14, 15 và 16, và thời chiến tranh Nam Bắc Mỹ (Secession) ở Hoa Kỳ. Lẽ tự nhiên, cũng có những trường hợp khác, gồm có Trung Hoa, Ấn Độ, Cambodia,  Pêru, Bắc Âu, Phi Châu, Trung Mỹ, Ý, Tây Ban Nha, Nhật Bản, và nhiều xứ khác;  nhưng phần nhiều các cuộc soi kiếp đều noi theo một khuôn khổ lịch sử như nhau.

Theo ông Edgar Cayce, lý do của sự kiện trên là vì những linh hồn thuộc về một  thời kỳ lịch sử nhất định, về sau thường chuyển kiếp đầu thai chung một lượt ở một thời kỳ khác. Trong những thế kỷ ở khoảng giữa, thì những nhóm linh hồn  khác lại chuyển kiếp xuống trần theo đúng phiên bản của họ. Sự thay phiên đầu  thai từng nhóm một cách có quy củ, trật tự như vậy cũng giống như sự thay phiên  từng toán thợ làm việc trong một cơ xưởng. Bởi đó, phần nhiều những linh hồn  đang sống trên thế gian hiện nay, đều đã cùng đầu thai với nhau một lượt ở những  thời kỳ quá khứ trong lịch sử. Ngoài ra, những linh hồn có sự liên lạc gia đình, bè  bạn hoặc đồng lý tưởng với nhau, có thể đã cùng có những nhân duyên với nhau  trong những kiếp trước.

Một câu hỏi khác được nêu ra: “Những tài liệu đó do đâu mà có?” Câu trả lời là:  Ông Edgar Cayce nằm trong giấc ngủ thôi miên, có thể thâu thập những tài liệu đó  ở hai nơi. Một là trạng thái vô thức của người đang được soi kiếp. Trạng thái vô  thức này giữ lại ký ức của tất cả những kinh nghiệm mà đương sự đã trải qua,  không những trong kiếp này mà cũng gồm luôn những kinh nghiệm ở những kiếp  trước. Những ký ức thuộc về kiếp trước được che khuất, ẩn tàng trong những chỗ thâm sâu kín đáo nhất của tiềm thức, ngoài vòng hiểu biết và thực nghiệm của  khoa Tâm Lý Học hiện đại.

Ngoài ra, tiềm thức của một người là một lĩnh vực dễ thăm dò bằng tiềm thức của  một người khác, hơn là bằng trạng thái ý thức, chẳng khác nào như một cảnh hỗn  độn của một thành phố lớn, người ta có thể đi từ chỗ này đến chỗ kia bằng đường  xe điện ngầm (metro) một cách dễ dàng mau chóng hơn là bằng những phương  tiện khác ở trên mặt đất. Bởi lẽ đó, trong trạng thái thôi miên, linh hồn ông Edgar Cayce tiếp xúc với linh hồn đương sự một cách trực tiếp bằng tiềm thức. Sự giải  thích này có thể được chấp nhận một cách dễ dàng; nó phù hợp, ít nhất là một  phần nào, với những sự phát minh của khoa Phân Giải Tâm Lý (psychanalyse) về cuộc đời và trạng thái vô thức.

Nhưng còn cái nguồn gốc thứ hai đã giúp tài liệu cho ông Edgar Cayce, thì dường  như rất lạ lùng. Những cuộc soi kiếp gọi đó là những “ký ức của không gian”  (Clichés Akashiques). Như thường lệ, mỗi khi nói đến một danh từ lạ và khó hiểu,  ông Edgar Cayce đánh vần từng chữ trong giấc thôi miên của ông: Akasha: Danh  từ; Akashique: Tính từ. Nói tóm tắt, ông Edgar Cayce giải thích danh từ ấy như sau:

Akasha là danh từ Phạn nhữ (sanskrit) dùng để chỉ chất dĩ thái tinh hoa căn bản  của Vũ Trụ. Chất ấy có cái tác dụng như một cái phim ảnh hay một cuốn phim  chiếu bóng, trên đó ghi nhận một cách rõ ràng không bao giờ mất những âm thanh,  ánh sáng, cùng mọi hành vi, tư tưởng của con người và tất cả mọi sự diễn ra trong  Vũ Trụ kể từ thuở Vô Cực. Chính nhờ có sự ghi nhận trong ký ức của không gian  đó mà những người có Thần Nhãn có thể nhìn thấy dĩ vãng như đọc một quyển  sách phơi bày từng trang trước mặt họ, dẫu cho những sự việc xảy ra đã cách xa  hằng bao nhiêu thời gian trong quá khứ. Chất Akasha cò thể được coi như một cái  máy chụp ảnh vĩ đại của Vũ Trụ. Cái khả năng thấy ký ức của Tự Nhiên trên chất  Akasha đó vốn là khả năng tiềm tàng ở mọi người trong chúng ta. Nó tùy nơi mức  độ nhạy cảm của mỗi người, và tùy nơi chúng ta có thể đặt mình vào một trạng  thái thụ cảm thích nghi, cũng ví như khi chúng ta bắt đúng luồng sóng vô tuyến  trên máy thu thanh để nghe âm nhạc vậy. Trong khi thức tỉnh, ông Edgar Cayce  không thể đặt mình vào trạng thái thụ cảm thích nghi để “bắt đúng luồng sóng”  như đã kể trên, nhưng trái lại trong giấc ngủ thôi miên ông có thể làm được điều  ấy.

Trong tất cả những điều bí ẩn mà ông Edgar Cayce đã thốt ra trong giấc ngủ thôi  miên, thì đó là điều mà ông cho là lạ lùng nhất. Tuy thế, đáp lại những câu hỏi  hoài nghi về vấn đề này, ông đều luôn luôn trả lời như nhau, có khi thì dùng những  danh từ giống nhau, có khi thì thêm vào những chi tiết phụ thuộc. Có nhiều khi,  ông nói thêm rằng những sự ghi nhận trên chất Akasha cũng có thể gọi là “Ký ức  của Vũ Trụ” hay “Quyển sách Tự Nhiên”.

Ông Edgar Cayce cũng đưa ra những sự giải thích đã có từ nhiều thế kỷ trước về chất Akasha. Nền triết học cổ Ấn Độ đã từng nói rằng căn bản của vật chất vốn hư không; vật chất là sự kết tinh của một sức mạnh gọi là sinh lực; và cũng nói về sự chuyển dịch tư tưởng bằng phương pháp thần giao cách cảm. Và những điều này gần đây đã được khoa học phương Tây xác nhận. Vậy tại sao chúng ta không có  một thái độ cởi mở để chấp nhận ít nhất là tiềm năng của chất Akasha, cũng là một  quan niệm khác của triết học Ấn? Sự giải thích bằng trạng thái vô thức có thể chấp nhận được trong việc soi kiếp cho những người khác, nhưng làm sao giải thích  hiện tượng này là ông Edgar Cayce đã nói rất nhiều chi tiết đầy đủ, nó tuôn tràn  một cách dồi dào như suối chảy trong những cuộc khám nghiệm sưu tầm về những  thời đại cổ xưa ở châu Atlantis, Ai Cập, và thời kỳ của Chúa Jesus?

Có thể nào ông đã góp nhặt tài liệu trong tiềm thức của những người đã từng sống  vào những thời kỳ đó chăng? Mặc dầu họ không phải là những người đến nhờ ông  soi kiếp? Hay ông Edgar Cayce đã khám phá ra những điều đó trong ký ức của  lịch sử, được ẩn giấu tiềm tàng và giữ gìn nguyên vẹn trong những cõi vô hình  huyền bí của Vũ Trụ? Sau cùng ông Edgar Cayce đã chấp nhận quan niệm về chất  Akasha, không phải vì ông có một bằng chứng tuyệt đối về điều ấy, mà bởi vì nó  đã được xác nhận trong những cuộc khám nghiệm bằng Thần Nhãn; và những  cuộc khám nghiệm của ông về tất cả mọi vấn đề từ trước đến nay đều đúng đắn và  hoàn toàn đáng tin cậy.

Có lẽ sự dùng Thần Nhãn để nhìn thấy những sự việc đã xảy ra trong quá khứ cũng có thể được giải thích bằng những cách khác; và có lẽ trong tương lai, một  nhà bác học hiện đại nào đó có thể chứng minh sự thật về chất Akasha, và điều  này rốt cuộc cũng không phải bí mật lạ lùng gì hơn những hiện tượng đã có, chẳng  hạn như luồng sóng vô tuyến, tính chất phóng quang của chất radium, nguyên tử lực, hoặc trí nhớ của bộ óc con người, và sự truyền cảm của hệ thần kinh. Dẫu sao,  những cuộc soi kiếp của ông Edgar Cayce và sự đúng đắn một lạ lùng của nó là  một sự thật hiển nhiên. Trong khoảng 22 năm trường, bắt đầu từ năm 1923 trở đi  là năm mà ông Edgar Cayce bắt đầu soi kiếp và khám bệnh bằng Thần Nhãn, cho  đến năm 1945 là năm ông từ trần, ông đã soi kiếp cho tất cả khoảng 2.500 người.  Cũng như những cuộc khám bệnh bằng Thần Nhãn, những cuộc soi kiếp đều được  ghi chép trong các tập hồ sơ và được giữ gìn cẩn thận. Nhiều thư từ văn kiện đã  chứng minh cho sự đúng đắn của nhiều cuộc soi kiếp, mỗi khi có đủ bằng chứng  xác nhận về sự đúng đắn của những điều đã tiết lộ. Những người nào muốn tìm  biết sự thật về những điều này vẫn còn có thể chất vấn nhiều người hiện nay còn  sống và đã từng được ông Edgar Cayce soi kiếp cho họ.

Như vậy, nếu chúng ta có thể tin tưởng nơi tính cách chân thật của những tập hồ sơ văn kiện lạ lùng đó và sự giải đáp của nó về những bài toán bí hiểm của cuộc  đời, thì ta đã có trong tay một số tài liệu khổng lồ và hiếm có về vấn đề này. Trước  hết chúng ta có một số bằng chứng cụ thể hiển nhiên về luật Luân Hồi, là một  nguyên tắc tiến hóa căn bản của con người. Và tất cả những yếu tố kể trên cũng  chưa đủ để hoàn toàn thuyết phục chúng ta, thì ít nhất nó cũng đáng để cho chúng  ta chú ý vì mục đích khảo cứu và sưu tầm khoa học. Có biết bao những phát minh  lớn lao vĩ đại, lúc ban đầu cũng chỉ căn cứ trên những giả thuyết lạ lùng và khó  tin. Khi người ta hỏi nhà bác học Einstein bằng cách nào ông ta đã phát minh ra  thuyết Tương Đối Luận, ông đáp:

_ Tôi chỉ thử đưa ra một nghi vấn về một định lý.

Ngoài ra, chúng ta còn có một số tài liệu rất dồi dào về tâm lý, y lý và triết lý, nó  đem đến cho ta một tầm kiến thức rộng rãi và khác hẳn về cuộc đời.

Trong khoảng hai mươi hai năm đó có biết bao nhiêu người đau khổ tuyệt vọng đã  tìm đến ông Edgar Cayce và đã được ông săn sóc giúp đỡ do sự hiểu biết thâm sâu  và năng khiếu Thần Nhãn của ông. Họ bị đủ thứ đau khổ bệnh tật về thể xác lẫn  tinh thần, và tất cả đều muốn tìm sự giải đáp cho câu hỏi sau đây:

“Tại sao sự đau khổ này lại đến cho tôi?”

“Nguyên nhân vì đâu mà tôi bị sự đau khổ này?”

Không phải tất cả những trường hợp đó đều là nguy cấp hay tuyệt vọng. Có nhiều  người xem ra thì những kiếp trước họ cũng tầm thường như kiếp này, vì không có  gì đặc biệt. Nhưng, dẫu cho sự đau khổ của họ nặng hay nhẹ, các cuộc soi kiếp đã  chỉ cho thấy rằng cái thân phận và hoàn cảnh hiện thời của họ là cái kết tinh của  bao nhiêu nhân và quả nối tiếp lẫn nhau như những cái khoen của một sợi dây xích  và bắt đầu từ nhiều thế kỷ trước. Tất cả đều đã được chỉ cho thấy rằng những bệnh  tật, thống khổ của họ bây giờ đều có nguyên nhân xa hay gần, do sự hành động  của một định luật căn bản gọi là Luật Nhân Quả.

Những gì họ đã nghe và học hỏi đã làm cho họ thay đổi cuộc đời; sự hiểu biết  thâm sâu về bài học Nhân Quả đã giúp cho họ một nguồn an ủi cũng như tìm thấy  sự thăng bằng và an tịnh của tâm hồn.

Nếu người ta chấp nhận tính cách chân thật của những cuộc soi kiếp, người ta  cũng phải nhìn nhận sự kiện này là nó đã làm đảo lộn trí óc và quan niệm của họ về cuộc đời. Tầm quan trọng của sự việc kể trên không phải là nó đem đến cho ta  một giả thuyết mới: đó là một lý thuyết rất cổ xưa và đã từng là một điều tín  ngưỡng của nhiều dân tộc rải rác ở nhiều miền lục địa trên quả Địa Cầu. Những  cuộc soi kiếp của ông Edgar Cayce có một tầm quan trọng vì hai điều này:

Điều thứ nhất: đây là lần đầu tiên ở Âu Mỹ mà người ta đã có được những bản  phúc trình đúng đắn, mạch lạc, rõ ràng và đáng tin cậy về những kiếp trước của  một số nhiều người.

Điều thứ hai: đây là lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, những bản phúc trình đó  được ghi chép và sắp xếp thành hồ sơ có ngăn nắp, trật tự, để cho mọi người có  thể tra cứu, sưu tầm. Ngoài ra, những cuộc soi kiếp của ông Edgar Cayce đã hợp  nhất triết lý Đông Tây và làm cho nó càng thêm phần sâu sắc. Nhờ đó, chúng ta đã có một sự tổng hợp rất cần thiết giữa hai quan điểm triết học khác nhau của Đông  phương và Tây phương.

Những cuộc soi kiếp bằng Thần Nhãn của ông Edgar Cayce cũng đã tổng hợp  khoa học và tôn giáo bằng cách chỉ cho ta thấy rằng cõi tinh thần được cai quản  bởi những Luật Nhân Quả một cách đúng đắn cũng y như cõi vật chất. Nó cho ta  thấy rằng sự đau khổ của con người không phải là do một sự rủi ro tình cờ theo  quan niệm duy vật, mà là do bởi những tư tưởng và cách hành động sai lầm trong  quá khứ. Nó chỉ ra rằng những sự sai biệt và bất đồng giữa thân thế, hoàn cảnh và  khả năng của người đời không phải là do ý muốn độc đoán của Thượng Đế hay là  do ảnh hưởng mù quáng của sự di truyền, mà nó chỉ là cái kết quả của những hành  động và cách xử thế của con người trong kiếp trước.

Mọi sự đắng cay, thất bại, buồn rầu đều có một ý nghĩa và mục đích giáo hóa  chúng ta về đường xử thế; những bệnh tật tai ương xảy đến cho ta đều có một  nguyên nhân sâu xa về tinh thần. Và tất cả những sự quằn quại đau khổ đều là  những bài học quý mà chúng ta thọ lãnh trên trường học lớn của thế gian, ngõ hầu  trong tương lai nó sẽ đưa chúng ta đến cái mục đích Minh Triết và Toàn Thiện.

Trong khoảng hai mươi năm làm việc chữa bệnh để cứu độ thế gian, ông Edgar  Cayce đã cứu chữa cho hằng nghìn bệnh nhân, và điều này càng xác nhận sự thật  về năng khiếu Thần Nhãn của ông. Với năng khiếu thần thông này, ông Edgar  Cayce nhìn thấu suốt tận trong ngũ tạng lục phủ của người bệnh, và những bộ phận ẩn giấu trong cơ thể con người, mà trong trường hợp thông thường người ta  không nhìn thấy được. Trong nhiều năm sau, người ta mới bắt đầu nghĩ rằng nếu  Thần Nhãn có thể soi thấu vào cơ thể con người, thì chắc nó cũng có thể chuyển  hướng ra bên ngoài Vũ Trụ càn khôn để nhìn thấy những mối liên quan giữa con  người và Vũ Trụ, và tìm sự giải đáp cho những vấn đề bí hiểm của đời người. Việc  đó đã xảy ra trong trường hợp sau đây:

Ông Arthur Lammers, chủ nhân một nhà in lớn ở Dayton, tiểu bang Ohio, có nghe  một người cộng sự với ông nói chuyện về ông Edgar Cayce. Ông lấy làm thích thú  và tò mò đến nỗi ông bèn lên đường đi đến tận nơi để quan sát công việc của ông  Edgar Cayce ở Selma, tiểu bang Alabama, là nơi ông Edgar Cayce đang cư ngụ.  Sau khi đã quan sát những cuộc khám bệnh của ông Edgar Cayce trong nhiều ngày  liên tiếp, ông Lammers mới nhìn nhận sự thật về năng khiếu Thần Nhãn của ông  này. Ông Lammers là một người thông minh và có kiến thức rộng. Ông bèn nghĩ rằng nếu một người có nhãn quan nhìn thấy những sự vật ẩn giấu đối với cặp mắt  người phàm, thì người ấy chắc có thể làm sáng tỏ những vấn đề rộng lớn hơn về Vũ Trụ và nhân sinh, chứ không phải chỉ nhìn thấy có sự hoạt động của lá gan hay  bộ máy tiêu hóa của người bệnh mà thôi. Ví dụ như: Trong tất cả mọi ngành triết  học và tôn giáo, thì ngành nào gần nhất với Chân Lý? Mục đích của đời người là  gì? Thuyết cho rằng linh hồn con người vốn bất diệt có đúng hay không? Nếu là  đúng, sau khi chết, con người sẽ đi về đâu? Thần Nhãn của ông Edgar Cayce có  thể đem đến sự giải đáp cho những vấn đề ấy chăng?

Ông Edgar Cayce không hề biết một chút gì về những vấn đề ấy. Những vấn đề trừu tượng về linh hồn và mục đích của cuộc đời … không hề thoáng qua trong ý  nghĩ của ông. Ông chỉ chấp nhận một cách âm thầm những giáo lý mà người ra  giảng cho ông ở Nhà Thờ; mọi sự thảo luận hoặc so sánh những giáo lý đó với  triết học, khoa học và các tôn giáo khác đều hoàn toàn xa lạ đối với ông.

Sở dĩ ông đã chịu sự dẫn dụ trong những giấc ngủ thôi miên là vì do lòng mong  muốn giúp đỡ những kẻ bệnh tật đau khổ. Ông Lammers là người đầu tiên đã nghĩ đến việc dùng Thần Nhãn của ông vào những mục đích khác hơn là chữa bệnh cho  nhân loại, và điều này càng làm gia tăng lòng hứng khởi của ông Edgar Cayce.  Trong những giấc thôi miên, ngoại trừ một vài trường hợp ngoại lệ rất hiếm, ông  đã luôn luôn trả lời và giải đáp đúng những câu hỏi nêu ra. Vậy thì không có lý do gì mà ông không thể giải đáp luôn cả những câu hỏi của ông Lammers về các vấn  đề Vũ Trụ nhân sinh khác hơn là vấn đề chữa bệnh.

Ông Lammers vì bận công việc kinh doanh không thể kéo dài thời gian ở Selma,  nên ông yêu cầu ông Edgar Cayce hãy về ở tại nhà ông ở Dayton trong vài tuần.  Ông Edgar Cayce bằng lòng với ý nghĩ rằng có lẽ Đấng Thiên Liêng muốn kêu gọi  ông vào những công việc phụng sự khác nữa. Gần đây ông Lammers có chú ý đến  khoa Chiêm Tinh. Ông nghĩ rằng nếu khoa Chiêm Tinh đúng với Chân Lý, thì đó  có thể là một ngành khoa học nối liền con người và Vũ Trụ mà chúng ta có thể hiểu được rõ ràng. Ông bèn có ý định bắt đầu thí nghiệm Thần Nhãn của ông  Edgar Cayce về khoa này.

Một ngày nọ vào tháng 10 năm 1923, khi ông Edgar Cayce nằm trong giấc ngủ thôi miên trong một gian phòng khách sạn Phillips ở Dayton, thì người ta dẫn dụ cho ông hãy lấy một lá số Chiêm Tinh cho ông Lammers. Tuân theo như thường lệ những lời dẫn dụ mà ông nhận được, ông Edgar Cayce bèn đưa ra những chi tiết về lá số của ông Lammers bằng một vài câu vắn tắt. Và sau cùng, cũng một lối  hành văn ngắn ngủi, vắn tắt như thế ông nói một câu lạ lùng: “Thuở xưa y là một  tu sĩ”. Câu nói tuy vắn tắt, nhưng đối với ông Lammers là người đã từng đọc nhiều  và đã từng quen thuộc với những lý thuyết quan trọng về nhân sinh và định mệnh  con người, câu nói ấy làm cho ông giật mình chẳng khác nào như bị điện giật!

Phải chăng câu ấy có nghĩa là Thần Nhãn của ông Edgar Cayce đã xác nhận như một sự thật hiển nhiên cái giả thuyết cổ xưa về vấn đề Luân Hồi?

Thay vì làm thỏa mãn sự tò mò của ông Lammers, cuộc khám nghiệm đó lại càng  làm cho ông tọc mạch muốn biết thêm. Khi ông Edgar Cayce thức tỉnh, ông thấy  ông Lammmers đang bàn luận sôi nổi với cô thư ký Linden Shroyer về những lời  nói của ông vừa rồi. Ông Lammers tuyên bố rằng nếu người ta có thể chứng minh  thuyết Luân Hồi là có thật, thì điều đó sẽ làm đảo lộn và thay đổi tất cả những  quan niệm đã có từ trước về triết học, tôn giáo, và Tâm Lý Học! Nếu ông Edgar  Cayce cứ tiếp tục thí nghiệm của ông sẽ có thể tiết lộ cho ta thấy rõ ràng luật Luân  Hồi hành động bằng cách nào. Ví dụ như những mối liên hệ giữa Luân Hồi và  khoa Chiêm Tinh là như thế nào? Hai điều trên đây sẽ giải thích bằng cách nào về linh hồn, về định mệnh, và về đời sống con người?

Ông Lammers bèn khẩn khoản yêu cầu, làm ông Edgar Cayce lấy làm lưỡng lự phân vân, nhưng ông vẫn nhận lời tiếp tục những cuộc khám nghiệm. Những câu  hỏi của ông Lammers đưa ra đã được giải đáp một cách đúng đắn và với đầy đủ chi tiết về những tiền kiếp của ông, cùng những vấn đề bí hiểm của đời người mà  ông bắt đầu khảo cứu tìm tòi. Theo những cuộc khám nghiệm đó, khoa Chiêm  Tinh có chứa đựng một phần nào sự thật. Thái Dương Hệ đưa đến cho linh hồn  đang tiến hóa một cơ hội học hỏi kinh nghiệm trong một chu kỳ nhất định. Con người thu thập kinh nghiệm ở cõi trần và trên những cõi vô hình khác, mà thuở xưa người ta gọi bằng tên các tinh cầu làm trung tâm điểm cho những cõi ấy. Tuy  nhiên, khoa Chiêm Tinh mà người ta được biết và thực hành trong thời buổi hiện  tại, chỉ là gần đúng với sự thật mà thôi, chứ không phải là hoàn toàn đúng, bởi vì  có nhiều yếu tố ẩn tàng mà người đời chưa khám phá ra được một cách đầy đủ trọn vẹn.

Những điều đó thật là lạ lùng đối với ông Edgar Cayce, nhưng sự tò mò khiến ông  cứ tiếp tục những cuộc khám nghiệm mà ông Lammers yêu cầu. Họ tự nghĩ rằng  những tài liệu mà họ muốn biết về những tiền kiếp sẽ được đầy đủ hơn nếu họ đừng đòi hỏi lấy một “Lá số” và nếu ông Edgar Cayce nhận một sự dẫn dụ thích  nghi hơn. Bởi đó người ta mới đề nghị rằng trong giấc thôi miên, ông Edgar Cayce  hãy đưa ra một lối dẫn dụ thích nghi. Và đây là lối dẫn dụ mà ông Edgar Cayce đã  đưa ra:

“Ông sẽ đứng trước mặt (tên của một người nào đó), sinh ngày … tại … Ông sẽ nói  cho biết thân thế và sự nghiệp của y và vai trò của y trong Vũ Trụ là như thế nào,  cùng những khuynh hướng và khả năng của y trong kiếp hiện tại. Ông cũng cho  biết những tiền kiếp của y ra sao với những chi tiết về tên tuổi, xứ sở và thời kỳ nào y đã trải qua những tiền kiếp đó. Và ông cũng cho biết luôn những nguyên  nhân nào trong mỗi kiếp đã giúp đỡ hoặc làm trì trệ sự tiến hóa của y trong kiếp  này”.

Từ đó những cuộc khám nghiệm đều nhằm rõ rệt vào những tiền kiếp của đương  sự. Những cuộc khám nghiệm này được gọi bằng danh từ soi kiếp, để phân biệt  với danh từ khám bệnh, chỉ nhằm khám nghiệm thể xác của bệnh nhân vì mục  đích chữa bệnh mà thôi. Đối với hai loại khám nghiệm kể trên, ông đều áp dụng  một phương pháp giống như nhau, trừ một chi tiết này, là mỗi khi ông Edgar  Cayce tuần tự soi kiếp cho nhiều người liên tiếp nhau thì ông bắt đầu cảm thấy  chóng mặt dữ dội. Chính ông cũng tự khám nghiệm lấy mình để tìm ra nguyên  nhân sự chóng mặt, thì ông được cho biết rằng cần phải đổi chiều hướng và quay  đầu về hướng Bắc, chân về hướng Nam trong những cuộc soi kiếp. Còn lý do vì  sao cần phải thay đổi chiều hướng như thế, thì không thấy giải thích, mà chỉ thấy  nói rằng đó là một vấn đề thuận dòng “Tự điển”.

Những cuộc soi kiếp cho chính ông Edgar Cayce tiết lộ rằng cách đây nhiều thế kỷ, ông đã từng làm một vị cao tăng ở các đền cổ ở bên Ai Cập và có nhiều quyền  phép thần thông, nhưng ông đã bị vấp ngã vì tính kiêu căng và thói ưa sắc dục.  Trong một tiền kiếp ở Ba Tư, ông làm một y sĩ. Trong một kiếp khác, có lần ông  bị thương trong một trận chiến trên sa mạc và bị bỏ sót lại trên bãi cát, vì những  người đồng đội tưởng rằng ông đã chết. Nằm một mình, không có nước uống,  không lương thực và không một mái che ông đã chịu khổ rất nhiều trong ba ngày  ba đêm đến nỗi ông đã làm một cố gắng rất lớn để xuất thần ra khỏi thể xác của ông. Ông đã xuất thần được và chính nhờ việc ấy một phần nào mà ngày nay ông  có cái khả năng tự thoát ly ra khỏi những giới hạn của thể xác. Tất cả những đức  tính và thói xấu của ông hiện thời đều được cân nhắc đúng đắn và đều có thể truy  nguyên ra ở những kinh nghiệm trong các kiếp trước. Cuộc đời hiện tại là một sự thử thách cho linh hồn ông; ông đã có cơ hội phụng sự nhân loại một cách vị tha,  để cứu chuộc những tội lỗi trong quá khứ, là thói kiêu căng, đam mê vật chất và ưa  thích điều sắc dục.

Ông Lammers nghĩ rằng những cuộc soi kiếp của ông Edgar Cayce có một tầm  quan trọng rất lớn, và bởi đó người ta cần thực hiện những cuộc sưu tầm rộng lớn  hơn về vấn đề này. Ông yêu cầu ông Edgar Cayce hãy đem gia quyến từ Selma về ở Dayton và đề nghị chịu đài thọ mọi khoản tổn phí về sinh hoạt cho cả gia đình  ông, gồm cả bà Edgar Cayce, cùng hai người con trai và cô bí thư Gladys Davis,  cô này từ đó đã trở nên một người thân tín trong gia dình ông. Cả gia đình đều  bằng lòng chấp thuận. Khi họ được cho biết về những sự gì xảy ra, thì họ đều có  sự phản ứng giống như ông Edgar Cayce: Lúc đầu họ còn ngạc nhiên và nghi ngại,  kế đó họ càng trở nên tò mò muốn biết sự thật và sau cùng họ đều lấy làm thích  thú cho đến say mê. Ông Edgar Cayce bèn soi kiếp cho mỗi người trong gia đình  ông. Trong mỗi trường hợp, tâm tính của mỗi người đều được diễn tả một cách  công khai và ông cho biết rằng mỗi thói hư tật xấu và mỗi đức tính tốt đều có  nguyên nhân trong những tiền kiếp. Trong cuộc soi kiếp cho một người con trai  ông, ông nói: “Trong bốn tiền kiếp con là một nhà khảo cứu khoa học, con đã trở nên có óc duy vật, ích kỷ và vụ lợi”. Soi kiếp cho một người con khác ông nói:  “Con có tính rất nóng nảy; thói xấu đó đã gây cho con nhiều điều bất lợi trong  những tiền kiếp ở Ai Cập và ở Anh Quốc. Kiếp này con nên tập lấy sự tự chủ và  tính kiên nhẫn”.

Những sự diễn tả tính tình đó đều hoàn toàn đúng đắn và chân thật, dẫu cho đương  sự là những người thân thích hay những người xa lạ như ông Lammers, cô Linden  Shroyer và những người bạn của ông Lammers, và điều đó càng làm cho ông này  thêm phần hứng khởi và tin tưởng.

Nhưng ông Edgar Cayce vẫn cảm thấy thắc mắc về những điều tiết lộ đó, đến nỗi  ông đâm ra nghi ngờ về ông và ông đã tự kiểm thảo lương tâm một cách ráo riết.  Sau cùng ông đi đến kết luận rằng ông có thể tin cậy nơi năng khiếu Thần Nhãn  của mình, bằng những cuộc khám bệnh và soi kiếp, ông đã làm một công việc  phụng sự chính đáng và thiêng liêng chớ không phải là một điều tà bậy. Nhưng  những điều tiết lộ của ông lại là những điều quá mới lạ và dường như … “Phản  đạo” làm sao ông có thể tin chắc rằng đó là đúng với sự thật?

Sự băn khoăn của ông có thể hiểu được dễ dàng: Ông vốn sinh trưởng trong một  gia đình Cơ đốc giáo khắt khe và chính thống. Ông không hề được biết một chút gì  về những giáo lý của các tôn giáo lớn trên thế giới. Trong lúc này, ông vẫn không biết gì về phần nhiều những điểm tương đồng giữa đạo Cơ đốc với những tôn giáo  khác, và ông chưa từng có dịp thưởng thức cái ánh sáng đạo lý nó chiếu soi trong  những ngọn đèn khác hơn là ngọn đèn Cơ đốc của mình. Ông hoàn toàn dốt về giáo lý căn bản của Ấn giáo và Phật giáo nói về vấn đề Luân Hồi.

Hơn nữa, danh từ này đối với ông, không được hấp dẫn cho lắm, vì người ta  thường có một quan niệm sai lầm về thuyết Luân Hồi. Họ tưởng rằng theo thuyết  ấy thì những người tội lỗi sau khi chết, có thể đầu thai trở lại làm kiếp thú, như làm thân trâu ngựa … Chính những cuộc soi kiếp đã giải tán những sự nghi ngờ này cho ông Edgar Cayce. Trong những cuộc khám nghiệm các tiền kiếp, ông  Edgar Cayce được biết rằng Luân Hồi không phải là đầu thai trở lại làm thú vật; và  không phải là một điều mê tín dị đoan. Đó là một giáo lý có căn bản vững vàng về phương diện tôn giáo và triết học. Có hằng triệu người trí thức ở Ấn Độ và ở các  xứ Phật giáo tin tưởng nơi thuyết ấy một cách sáng suốt thông minh, và lấy đó làm  nền tảng cho mọi cách xử thế trong đời sống hằng ngày của họ. Tự nhiên là có  nhiều môn phái ở Ấn Độ và ở các nước Á châu cũng chủ trương thuyết Thoái Bộ Luân Hồi (metempsychose), tức là con người có thể tái sinh làm kiếp thú, nhưng  đó chỉ là một sự chủ trương sai lầm về thuyết Luân Hồi. Vài tôn giáo cũng có  những quan niệm lệch lạc về thuyết này, nhưng ta không nên để cho những sự hiểu lầm và thiên lệch đó khép chặt trí óc của ta đối với một điều Chân Lý căn bản  và trọng đại.

Ông Lammers có thể bổ túc những điều được tiết lộ trong những cuộc soi kiếp.  Ông giải thích rằng Luân Hồi có nghĩa là Tiến Hóa: Sự tiến hóa của linh hồn con  người trải qua nhiều kiếp đầu thai liên tiếp ở cõi trần, khi thì đầu thai làm đàn ông,  khi thì làm đàn bà; khi thì làm thường dân, khi thì làm vua chúa; kiếp này đầu thai  làm giống dân này, kiếp kia làm giống dân khác … Cho đến khi linh hồn đạt tới  mức hoàn thiện. Linh hồn con người cũng ví như một anh tài tử sân khấu đóng  nhiều vai trò khác nhau và mặc những bộ y phục khác nhau từ đêm này qua đêm  khác. Hoặc cũng ví như ta mặc một cái áo bằng vải trong một thời gian, và khi nó  đã cũ, thì vứt bỏ để đổi lấy một cái áo khác. Nhiều bậc hiền triết và các nhà thông  thái, trí thức siêu việt của Tây phương cũng đã chấp nhận thuyết Luân Hồi và đã  viết nhiều sách vở về vấn đề này, trong số đó có Pythagore, Platon, Plotin,  Giordanno Bruno, Goethe, Whitman, Emerson, và Schopenhauer.

Ông Edgar Cayce bày tỏ ý kiến: “Những điều đó hẳn là đúng sự thật hiển nhiên  rồi; nhưng còn đạo Cơ đốc thì sao? Nếu tôi chấp nhận thuyết Luân Hồi thì phải  chăng điều đó có nghĩa là tôi phủ nhận Đức Jesus. Một luật gia trong số những  người Pharisiens đã đưa ra câu hỏi đó cho Đức Jesus, và Ngài đáp rằng: “Ngươi  hãy kính yêu Chúa ngươi hết lòng và hết cả tâm hồn. Và ngươi hay thương yêu kẻ đồng loại của ngươi như ngươi vậy. Hai điều răn đó là tất cả giáo luật và lời dạy  của các nhà Tiên Tri” (Mathieu 22, 35-40)

Những lời dạy giản dị và sâu xa về tình bác ái đó có khác gì với lời dạy về sự tiến  hóa và thuyết Luân Hồi? Và nó có khác gì với những giáo lý của bất cứ tôn giáo  nào trên thế giới? Đức Phật đã dạy: “Ngươi đừng làm hại kẻ khác nếu ngươi  không muốn kẻ khác làm hại mình”. Và những Thánh Kinh của Ấn giáo cũng dạy  rằng: “Ngươi đừng làm điều gì cho người khác mà ngươi không muốn người khác  làm cho ngươi”.

Ấn giáo cũng như Phật giáo, đều không thấy có cái sự khác biệt, dị đồng giữa luật  bác ái và luật tiến hóa tâm linh mà người ta gọi là Luân Hồi. Những tôn giáo ấy  chỉ nhấn mạnh ở luật Luân Hồi nhiều hơn mà thôi, chớ không cho rằng hai luật ấy  tương phản nhau. Nhưng ông Edgar Cayce vẫn chưa chịu thuyết phục. Năm lên 10  tuổi, người ta đã cho ông đọc bộ Thánh Kinh (Bible) và ông rất lấy làm say mê.  Từ đó, ông nhất định đọc lại bộ sách ấy mỗi năm một lần suốt đời ông. Trong  những năm ấy, ông không hề thấy một lần nào trong sách đó có chữ Luân Hồi.  Vậy thì tại sao bộ Thánh Kinh, và điều quan trọng hơn nữa, là Đức Jesus lại không  hề nói đến vấn đề này?

Ông Lammers nghĩ rằng: “Có lẽ Đức Jesus có nói về vấn đề Luân Hồi”.

Trước hết, ta nên nhớ rằng Đức Jesus đã truyền dạy cho các vị môn đồ nhiều giáo  lý mà Ngài không đem giảng dạy cho quần chúng. Và dẫu cho Ngài có dạy thuyết  Luân Hồi cho một số đông người, ta đừng quên rằng trải qua nhiều thế kỷ, phần  chính giáo của Ngài đã chịu nhiều sự biến thiên dời đổi do những sự diễn đạt của  người đương thời và do sự phiên dịch qua nhiều thứ tiếng. Bởi vậy, có thể rằng  nhiều giáo lý nguyên thủy của Ngài đã bị thất truyền. Tuy nhiên, ở một vài đoạn  trong Thánh Kinh, người ta thấy có sự ngụ ý về vấn đề Luân Hồi. Đức Jesus có lần  nói với các môn đồ rằng Thánh Jean-Bastiste tức là Elie tái sinh (Mathieu 17, 12- 13). Ngài không có dùng chữ Luân Hồi tái sinh, nhưng Ngài lại nói một cách rõ  ràng không úp mở, rằng “Elie đã trở lại … ”. Và khi đó các môn đồ hiểu rằng Ngài  nói với họ về Thánh Jean-Bastiste. Trong một đoạn khác, các môn đồ hỏi Ngài về một người mù: “Thưa Thầy, ai đã gây tội lỗi? Chính người này hay là cha mẹ y đã  phạm tội, khiến cho y sinh ra đã bị mù?” Nhiều đoạn khác trong Thánh Kinh cũng  ám chỉ, hoặc hàm xúc ý nghĩa về Luân Hồi. Ta hãy đọc trong thiên Apocalypse,  Chương mười ba, câu thứ mười: “Kẻ nào cầm tù kẻ khác sẽ bị kẻ khác cầm tù; kẻ nào sử dụng gươm đao sẽ chết vì gươm đao”.

Câu ấy ám chỉ ra rằng có một Luật Nhân Quả hành động từ kiếp này sang kiếp  khác. Có điều chắc chắn là phe chính thống của Cơ đốc giáo đã dần dần góp nhặt  và tu chỉnh những phần giáo lý của Đức Jesus không có nói về vấn đề Luân Hồi;  nhưng làm sao người ta có thể chắc chắn rằng sự diễn đạt và chọn lọc của phe  chính thống đối với những giáo lý nguyên thủy là hoàn toàn vô tư và không thiên  lệch? Nghiên cứu tiểu sử các vị cố đạo Cơ đốc thời cổ, người ta thấy có nhiều vị trong số đó đã nhìn nhận thuyết Luân Hồi trong những tác phẩm của họ, và đã  công khai giảng dạy thuyết ấy, như Origene, Jutin, Thánh Jerome, Clement  Alexandrie, Plotin và nhiều vị khác nữa.

Những vị này đã từng sống vào thời kỳ gần với thời đại của Đức Jesus. Phải chăng  các vị ấy đã biết và truyền bá những phần giáo lý bí truyền có từ nghìn xưa, mà  Đức Jesus chỉ dạy riêng cho 12 vị tông đồ thân tín của Ngài mà thôi?

Theo ông Lammers, thì Đức giám mục Mercier tuy không tin tưởng nơi thuyết  Luân Hồi, nhưng đã tuyên bố rằng thuyết ấy không trái với những giáo điều căn  bản của đạo Cơ đốc.

Những điều kể trên đã giải tán bớt những nỗi thắc mắc băn khoăn của ông Edgar  Cayce, vì ông đã tưởng rằng ông dùng những quyền năng lạ lùng của mình một  cách trái đạo, tức là tương phản với tôn giáo gốc của ông. Ngoài ra, ông cũng còn  có một vài điểm thắc mắc nghi ngờ về quyền năng của mình, nhưng điều này lại  có một tính cách khoa học. Một ví dụ: Làm sao giải thích sự gia tăng dân số lớn  lao trên thế giới hiện nay nếu người ta chấp nhận rằng tất cả những linh hồn đều  đã có sống trên mặt đất? Vậy thì số sai biệt phụ trội đó ở đâu mà ra? Tất cả gia  đình ông Edgar Cayce, cùng ông Lammers, các cô bí thư Gladys Davis và Linden  Shroyer đều thường họp mặt trong phòng khách để thảo luận về những vấn đề ấy.  Khi tất cả mọi người đều cạn ý kiến, thì người ta mới nhớ đến sự khám nghiệm  bằng năng khiếu Thần Nhãn của ông Edgar Cayce để tìm ra sự giải đáp; và khi  những cuộc khám nghiệm đó có những điều đáng ngờ vực, thì họ tham khảo tài  liệu ở các sách báo trong thư viện quốc gia.

Nói về vấn đề gia tăng dân số trên thế giới, thì tìm ra câu giải đáp cũng không phải  là một điều khó. Một người trong nhóm nói rằng: Dẫu sao, chúng ta có chắc rằng  quả thật có sự gia tăng dân số hay không? Những cuộc khám nghiệm đã qua có nói  về những nền văn minh cổ xưa ở Ai Cập, và ở châu Atlantis nay đã biệt tích. Ở Cambodia, Mêxicô, Ai Cập và ở các xứ Đông phương, những tàn tích khảo cổ đã  xác nhận rằng những nền văn minh lớn cổ xưa đã từng xuất hiện trên những vùng  lãnh thổ rộng lớn, mà ngày nay chỉ còn là những bãi sa mạc. Như thế người ta có  thể quan niệm được rằng ở vào những thời kỳ khác nhau trong lịch sử, có những  lúc mà dân số trồi sụt không đồng đều, nhưng vẫn không hề thay đổi linh hồn  trong Vũ Trụ. Có thể rằng hằng triệu linh hồn vẫn phảng phất trên các cõi vô hình  trong những thời kỳ mà hoàn cảnh không thuận tiện cho họ đầu thai xuống cõi  trần.

Tuy ông Edgar Cayce vẫn có óc hoài nghi, nhưng ông đã hài lòng về câu giải đáp  hữu lý trên đây. Nhưng còn châu Atlantis cũng lại là một vấn đề nan giải khác  nữa. Làm sao chúng ta có thể biết rằng châu Atlantis là có thật? Hay đó chỉ là  chuyện hoang đường? Những cuộc khám nghiệm bằng Thần Nhãn của ông Edgar Cayce đã đưa ra câu giải đáp cho vấn đề ấy một cách tường tận tỉ mì và với rất  nhiều chi tiết.

Nhà triết học Platon là người đầu tiên ở phương Tây đã tường thuật sự hiện diện  của châu Atlantis, nay đã chìm dưới đáy biển Đại Tây Dương. Và mặc dầu quần  chúng ngày nay không chý ý đến, nhưng những nhà địa chất học cũng đã từng  quan tâm về vấn đề này. Họ vẫn không đồng ý với nhau, người thì phủ nhận, kẻ thì quả quyết sự hiện diện của châu Atlantis. Dẫu sao có một số lớn sách vở của  những tác giả uyên bác đã nói đến vấn đề này và đã đưa ra rất nhiều bằng chứng  lịch sử, văn hóa và khoa học, bổ trợ lẫn nhau. Ông Edgar Cayce đã đọc một quyển  nhan đề “Châu Atlantis, một thế giới của thời kỳ tiền sử” của tác giả Ignatius  Donnelly, và rất ngạc nhiên mà nhận thấy rằng những cuộc khám nghiệm của ông  đã diễn tả đúng y như những bằng chứng căn bản nêu trong quyển sách ấy.

Những cuộc thảo luận và khảo cứu tài liệu ở các sách vở về lịch sử, khoa học, tôn  giáo, đạo lý cổ truyền, về châu Atlantis và về khía cạnh tâm lý của khoa thôi miên,  là những vấn đề đã được nêu ra trong các cuộc khám nghiệm bằng Thần Nhãn, đã  giúp cho ông Edgar Cayce có được một tầm kiến thức rộng rãi về văn hóa và lịch  sử mà ông vẫn thiếu sót. Dần dần, ông bớt sợ hãi và thắc mắc về những điều mà  ông thốt ra trong giấc ngủ thôi miên, ông cảm thấy rằng những điều ấy có thể chứa  đựng một phần nào sự thật. Với một sự tọc mạch xen lẫn với một khối óc phê  bình, ông bắt đầu phân tích những cuộc khám nghiệm để kiểm soát cho nó được  hoàn toàn đúng đắn. Trước hết ông nhận thấy rằng những cuộc khám nghiệm ấy  đều có mạch lạc và liên đới lẫn nhau. Không bao giờ một cuộc khám nghiệm này  lại tương phản với một cuộc khám nghiệm khác, dẫu là cách nhau bao xa cũng  vậy. Bởi đó, một người có thể được khám nghiệm một lần thứ nhì, nhiều tháng  hoặc nhiều năm sau lần thứ nhất. Những tài liệu đều ăn khớp với nhau và nối tiếp  nhau một cách đúng đắn, chẳng khác nào như người ta lật một quyển sách ở chỗ trang đã được làm dấu sẵn, để đọc tiếp theo đoạn sách đã bỏ dở kỳ trước. Phần  nhiều những cuộc soi kiếp đưa ra những tài liệu tổng quát về những thời kỳ cổ xưa, như ở Ai Cập và châu Atlantis.

Khi người ta đem đối chiếu những cuộc soi kiếp đó với nhau, thì thấy rằng những  chi tiết rời rạc và thiếu sót đã bổ khuyết lẫn nhau và trở nên hoàn bị hơn. Mỗi cuộc  soi kiếp lập lại một phần những gì đã được nói ra trong một lần trước, hoặc thêm  vào một chi tiết mới cho toàn thể câu chuyện.

Các cuộc soi kiếp không chỉ hòa hợp lẫn nhau, mà còn xác nhận lẫn nhau trên  nhiều điểm về những sự việc được ghi chép trong lịch sử, dẫu đó là những sự việc  bí ẩn tối tăm, thuộc về phần ngoại sử. Ví dụ: Một trong những cuộc soi kiếp nói  rằng một người nọ, trong một tiền kiếp, đã từng làm một người “Phóng ghế”. Ông  Edgar Cayce không hề biết “Phóng ghế” nghĩa là gì, và khi tra cứu tự điển, ông  mới thấy rằng danh từ đó ám chỉ một phong tục cổ xưa của dân miền Bắc Mỹ:

Người ta trói những mụ phù thủy trên những chiếc ghế đẩu và cầm chân ghế chổng ngược để nhận chìm họ xuống ao nước lạnh.

Một ví dụ khác: Trong cuộc soi kiếp cho một người thanh niên, ông Edgar Cayce  nói rằng trong một kiếp trước, y đã sống ở bên Pháp, tại đây y gặp gỡ và làm bạn  với nhà bác học Mỹ Robert Fulton và đã giúp đỡ người này trong việc thực hiện  một vài phát minh khoa học. Ông Edgar Cayce biết rõ Robert Fulton nhưng ông  không tin rằng ông này đã sống ở nước ngoài, ngoại trừ nước Mỹ. Sau khi tra cứu  một quyển tự điển về tiểu sử các nhân vật ông mới biết rằng ông Fulton đã có ở bên Pháp nhiều năm, và đã được nhiều người quen biết giúp đỡ và khuyến khích  trong ngành hoạt động của ông.

Ngoài những sự xác nhận lịch sử lạ lùng nói trên về những tiền kiếp, còn có rất  nhiều bằng chứng khác về kiếp hiện tại. Ông Edgar Cayce biết rằng những sự phân  tích tâm lý trong những cuộc soi kiếp của ông đều đúng, không những đối với ông  và những người trong gia đình, mà cũng đúng đối với những người hoàn toàn xa  lạ. Trong những cuộc soi kiếp cũng như trong những cuộc khám bệnh, dẫu cho  đương sự có quen biết hay không đối với ông Edgar Cayce, điều đó không có quan  hệ gì cả. Họ có thể là những người hoàn toàn xa lạ hoặc ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Nếu ông có được đầy đủ tên họ, ngày sinh và nơi sinh của những người ấy,  ông có thể diễn tả một cách đúng đắn những hoàn cảnh hiện tại cùng những điều  bí ẩn trong tâm tính của họ. Ông cũng nói luôn cả những đức tính, khả năng cùng  những khuyết điểm của họ, và truy nguyên ra tất cả những điều đó ở các tiền kiếp.

Những cuộc soi kiếp cũng đúng dưới một khía cạnh khác. Ông Edgar Cayce đã có  thể kiểm điểm lại những điều mà cuộc soi kiếp đã tiết lộ về tính chất và khả năng  nghề nghiệp tương lai của những đứa trẻ con. Một cuộc soi kiếp ngày sinh của một  đứa trẻ tại Norfolk cho biết rằng sau này nó sẽ là một đứa trẻ bướng bỉnh, cứng  đầu và khó dạy. Khi nó lớn lên, những tính nết đó càng ngày càng biểu lộ một  cách rõ rệt, và cha mẹ nó cũng không thể làm cách nào để sửa đổi được.

Trong trường hợp lý thú hơn nữa là của một đứa trẻ khác mà cuộc soi kiếp cho  biết rằng về sau nó có thể trở nên một y sĩ có tài. Những thói xấu mà cuộc soi kiếp  trước cũng đã bắt đầu biểu lộ sớm, cùng một lượt với sự thích thú đặc biệt về ngành y học. Vào năm tám tuổi, cậu ấy đã bắt đầu mổ xác những con thú đã chết  để xem cơ thể bên trong con thú như thế nào. Chưa đầy mười tuổi, cậu ấy đã xem  một cách say mê những bộ sách tự điển Y Khoa, và năm mười hai tuổi, cậu cho  cha mẹ biết rằng mình có ý muốn sẽ vào trường Đại Học John Hopkins để theo  ngành Y khoa. Cha của đứa trẻ là một nhà kinh doanh thương mại ở New York;  mẹ y là một nữ tài tử. Lúc đầu, cha mẹ cậu đều phản đối ý định học Y khoa của  cậu và khuyên hãy bỏ ý định ấy. Nhưng đứa trẻ cương quyết giữ lập trường và sau  cùng đã thắng mọi trở lực. Hiện nay cậu ấy đang học lớp dự bị về khoa Lý Hóa  Sinh tại một trường Đại Học lớn ở miền Đông Hoa Kỳ. Trường hợp này chứng tỏ một lần nữa về năng khiếu Thần Nhãn thật sự của ông Edgar Cayce, vì ông đã nhìn thấy kiếp trước của đứa trẻ và chắc chắn rằng những khả năng đặc biệt của  cậu sẽ biểu lộ ra ở kiếp này.

Những ví dụ kể trên chỉ ra rằng những cuộc soi kiếp của ông Edgar Cayce có một  giá trị rất lớn về sự tiên đoán tương lai, không những của trẻ sơ sinh mà cũng của  những người lớn. Một cô điện tín viên ở bưu điện thành phố New York lấy làm vô  cùng ngạc nhiên về những bức điện tín lạ lùng mà cô đã đánh đi nhiều lần về Virginia Beach. Cô ấy mới hỏi thăm về ông Edgar Cayce và quyết định yêu cầu  ông soi kiếp cho cô. Nhờ đó, cô biết rằng cô sẽ theo đuổi nghề nghiệp điện tín  viên, và tốt hơn cô nên học về ngành vẽ quảng cáo, vì trong nhiều kiếp trước, cô  đã là một nghệ sĩ có tài về ngành này. Cô ấy không hề có ý nghĩ theo đuổi một  nghệ thuật nào, dẫu là kỹ nghệ họa hay bất cứ ngành nào khác, nhưng cô ấy có đủ can đảm để học thử và xin ghi tên học ở một trường nọ. Cô lấy làm vô cùng ngạc  nhiên mà thấy rằng cô có năng khiếu và đã thành công rất mau chóng với ngành  kỹ nghệ họa, đồng thời cô cũng được cải tiến rất nhiều về nhân cách của mình.

Với thời gian trôi qua, ông Edgar Cayce càng nhận thấy rằng những cuộc soi kiếp  của ông đã giúp ích cho rất nhiều người. Ông càng vững đức tin hơn trước, khi  thấy rằng công việc của ông làm là chính đáng vì nó gây nên những kết quả tốt  đẹp. Có nhiều người được hướng dẫn theo những nghề nghiệp thích hợp với họ;  những người khác nhận được những lời chỉ bảo giúp san bằng mọi khó khăn trong  đời sống gia đình; những người khác nữa đã tìm cách tự biết mình và tập hòa mình  một cách thích nghi với đời sống xã hội.

Những điều kể trên đã dần thuyết phục ông Edgar Cayce về tính cách chân thật và  xác đáng của những cuộc soi kiếp bằng Thần Nhãn cũng như của sự giải thích mà  nó đưa ra về định mệnh của con người. Nhưng điều làm cho ông tin tưởng hơn hết  là cái tinh thần Cơ đốc giáo thâm sâu, tiềm tàng trong những điều mà cuộc soi kiếp  đã tiết lộ cho ông biết; và hơn nữa, cái tinh thần Cơ đốc giáo đó lại được đưa ra  một cách dễ dàng và thích nghi trong khuôn khổ của thuyết Luân Hồi.

Một cuộc soi kiếp ít khi nào mà không nêu ra một đoạn sách trong Thánh Kinh  hay một điều giảng dạy của Đức Jesus. Những câu dẫn chứng thông thường nhất  là những lời dạy của Đức Jesus như sau: “Ngươi sẽ gặt hái những gì ngươi đã  gieo” và “Hãy làm cho kẻ khác những gì ngươi muốn kẻ khác làm cho ngươi”. Đôi  khi đó là những câu chú thích theo đúng nguyên văn hoặc phác họa thêm ít nhiều  tư tưởng theo nguyên văn, chẳng hạn như: “Ngươi chớ lầm lạc: Không ai có thể kiêu ngạo trước mặt Chúa Trời! Vì ai gieo giống nào sẽ gặt giống nấy”. Và: “Con  người luôn luôn là cái hậu quả của chính mình. Ngươi hãy làm điều lành cho  những kẻ đã phỉ báng nhục mạ ngươi, rồi ngươi sẽ cứu chuộc được những điều tội  lỗi mà chính ngươi đã gây ra cho kẻ khác”.

Những lời dẫn chứng kể trên là để răn dạy những người bị bệnh tật đau khổ, do  hậu quả của những điều tội lỗi mà họ đã gây ra trong một kiếp trước.

Khi sự hứng khởi nồng nhiệt lúc ban đầu đã lắng dịu, thì nhóm người xung quanh  ông Edgar Cayce mới bắt đầu đặt những câu hỏi về những điều đã tiết lộ trong các  cuộc soi kiếp của chính họ. Trước hết họ muốn biết tại sao có một vài thời kỳ trong lịch sử luôn luôn tái diễn trở đi trở lại trong các cuộc soi kiếp. Nhiều người  lại có chung một bối cảnh lịch sử giống như nhau; nói tóm lại, những điều diễn tả trong các cuộc soi kiếp hình như đều rập theo một khuôn khổ. Các cuộc soi kiếp  thường nêu ra một loạt các thời kỳ sau đây: Thời đại châu Atlantis, Đế Quốc La  Mã, Thời kỳ Thánh Chiến (Croisades) và lúc khởi đầu thời kỳ khai mở thuộc địa ở Bắc Mỹ. Một loạt khác gồm có: châu Atlantis, Ai Cập, La Mã, nước Pháp thời  Louis 14, 15 và 16, và thời chiến tranh Nam Bắc Mỹ (Secession) ở Hoa Kỳ. Lẽ tự nhiên, cũng có những trường hợp khác, gồm có Trung Hoa, Ấn Độ, Cambodia,  Pêru, Bắc Âu, Phi Châu, Trung Mỹ, Ý, Tây Ban Nha, Nhật Bản, và nhiều xứ khác;  nhưng phần nhiều các cuộc soi kiếp đều noi theo một khuôn khổ lịch sử như nhau.

Theo ông Edgar Cayce, lý do của sự kiện trên là vì những linh hồn thuộc về một  thời kỳ lịch sử nhất định, về sau thường chuyển kiếp đầu thai chung một lượt ở một thời kỳ khác. Trong những thế kỷ ở khoảng giữa, thì những nhóm linh hồn  khác lại chuyển kiếp xuống trần theo đúng phiên bản của họ. Sự thay phiên đầu  thai từng nhóm một cách có quy củ, trật tự như vậy cũng giống như sự thay phiên  từng toán thợ làm việc trong một cơ xưởng. Bởi đó, phần nhiều những linh hồn  đang sống trên thế gian hiện nay, đều đã cùng đầu thai với nhau một lượt ở những  thời kỳ quá khứ trong lịch sử. Ngoài ra, những linh hồn có sự liên lạc gia đình, bè  bạn hoặc đồng lý tưởng với nhau, có thể đã cùng có những nhân duyên với nhau  trong những kiếp trước.

Một câu hỏi khác được nêu ra: “Những tài liệu đó do đâu mà có?” Câu trả lời là:  Ông Edgar Cayce nằm trong giấc ngủ thôi miên, có thể thâu thập những tài liệu đó  ở hai nơi. Một là trạng thái vô thức của người đang được soi kiếp. Trạng thái vô  thức này giữ lại ký ức của tất cả những kinh nghiệm mà đương sự đã trải qua,  không những trong kiếp này mà cũng gồm luôn những kinh nghiệm ở những kiếp  trước. Những ký ức thuộc về kiếp trước được che khuất, ẩn tàng trong những chỗ thâm sâu kín đáo nhất của tiềm thức, ngoài vòng hiểu biết và thực nghiệm của  khoa Tâm Lý Học hiện đại.

Ngoài ra, tiềm thức của một người là một lĩnh vực dễ thăm dò bằng tiềm thức của  một người khác, hơn là bằng trạng thái ý thức, chẳng khác nào như một cảnh hỗn  độn của một thành phố lớn, người ta có thể đi từ chỗ này đến chỗ kia bằng đường  xe điện ngầm (metro) một cách dễ dàng mau chóng hơn là bằng những phương  tiện khác ở trên mặt đất. Bởi lẽ đó, trong trạng thái thôi miên, linh hồn ông Edgar Cayce tiếp xúc với linh hồn đương sự một cách trực tiếp bằng tiềm thức. Sự giải  thích này có thể được chấp nhận một cách dễ dàng; nó phù hợp, ít nhất là một  phần nào, với những sự phát minh của khoa Phân Giải Tâm Lý (psychanalyse) về cuộc đời và trạng thái vô thức.

Nhưng còn cái nguồn gốc thứ hai đã giúp tài liệu cho ông Edgar Cayce, thì dường  như rất lạ lùng. Những cuộc soi kiếp gọi đó là những “ký ức của không gian”  (Clichés Akashiques). Như thường lệ, mỗi khi nói đến một danh từ lạ và khó hiểu,  ông Edgar Cayce đánh vần từng chữ trong giấc thôi miên của ông: Akasha: Danh  từ; Akashique: Tính từ. Nói tóm tắt, ông Edgar Cayce giải thích danh từ ấy như sau:

Akasha là danh từ Phạn nhữ (sanskrit) dùng để chỉ chất dĩ thái tinh hoa căn bản  của Vũ Trụ. Chất ấy có cái tác dụng như một cái phim ảnh hay một cuốn phim  chiếu bóng, trên đó ghi nhận một cách rõ ràng không bao giờ mất những âm thanh,  ánh sáng, cùng mọi hành vi, tư tưởng của con người và tất cả mọi sự diễn ra trong  Vũ Trụ kể từ thuở Vô Cực. Chính nhờ có sự ghi nhận trong ký ức của không gian  đó mà những người có Thần Nhãn có thể nhìn thấy dĩ vãng như đọc một quyển  sách phơi bày từng trang trước mặt họ, dẫu cho những sự việc xảy ra đã cách xa  hằng bao nhiêu thời gian trong quá khứ. Chất Akasha cò thể được coi như một cái  máy chụp ảnh vĩ đại của Vũ Trụ. Cái khả năng thấy ký ức của Tự Nhiên trên chất  Akasha đó vốn là khả năng tiềm tàng ở mọi người trong chúng ta. Nó tùy nơi mức  độ nhạy cảm của mỗi người, và tùy nơi chúng ta có thể đặt mình vào một trạng  thái thụ cảm thích nghi, cũng ví như khi chúng ta bắt đúng luồng sóng vô tuyến  trên máy thu thanh để nghe âm nhạc vậy. Trong khi thức tỉnh, ông Edgar Cayce  không thể đặt mình vào trạng thái thụ cảm thích nghi để “bắt đúng luồng sóng”  như đã kể trên, nhưng trái lại trong giấc ngủ thôi miên ông có thể làm được điều  ấy.

Trong tất cả những điều bí ẩn mà ông Edgar Cayce đã thốt ra trong giấc ngủ thôi  miên, thì đó là điều mà ông cho là lạ lùng nhất. Tuy thế, đáp lại những câu hỏi  hoài nghi về vấn đề này, ông đều luôn luôn trả lời như nhau, có khi thì dùng những  danh từ giống nhau, có khi thì thêm vào những chi tiết phụ thuộc. Có nhiều khi,  ông nói thêm rằng những sự ghi nhận trên chất Akasha cũng có thể gọi là “Ký ức  của Vũ Trụ” hay “Quyển sách Tự Nhiên”.

Ông Edgar Cayce cũng đưa ra những sự giải thích đã có từ nhiều thế kỷ trước về chất Akasha. Nền triết học cổ Ấn Độ đã từng nói rằng căn bản của vật chất vốn hư không; vật chất là sự kết tinh của một sức mạnh gọi là sinh lực; và cũng nói về sự chuyển dịch tư tưởng bằng phương pháp thần giao cách cảm. Và những điều này gần đây đã được khoa học phương Tây xác nhận. Vậy tại sao chúng ta không có  một thái độ cởi mở để chấp nhận ít nhất là tiềm năng của chất Akasha, cũng là một  quan niệm khác của triết học Ấn? Sự giải thích bằng trạng thái vô thức có thể chấp nhận được trong việc soi kiếp cho những người khác, nhưng làm sao giải thích  hiện tượng này là ông Edgar Cayce đã nói rất nhiều chi tiết đầy đủ, nó tuôn tràn  một cách dồi dào như suối chảy trong những cuộc khám nghiệm sưu tầm về những  thời đại cổ xưa ở châu Atlantis, Ai Cập, và thời kỳ của Chúa Jesus?

Có thể nào ông đã góp nhặt tài liệu trong tiềm thức của những người đã từng sống  vào những thời kỳ đó chăng? Mặc dầu họ không phải là những người đến nhờ ông  soi kiếp? Hay ông Edgar Cayce đã khám phá ra những điều đó trong ký ức của  lịch sử, được ẩn giấu tiềm tàng và giữ gìn nguyên vẹn trong những cõi vô hình  huyền bí của Vũ Trụ? Sau cùng ông Edgar Cayce đã chấp nhận quan niệm về chất  Akasha, không phải vì ông có một bằng chứng tuyệt đối về điều ấy, mà bởi vì nó  đã được xác nhận trong những cuộc khám nghiệm bằng Thần Nhãn; và những  cuộc khám nghiệm của ông về tất cả mọi vấn đề từ trước đến nay đều đúng đắn và  hoàn toàn đáng tin cậy.

Có lẽ sự dùng Thần Nhãn để nhìn thấy những sự việc đã xảy ra trong quá khứ cũng có thể được giải thích bằng những cách khác; và có lẽ trong tương lai, một  nhà bác học hiện đại nào đó có thể chứng minh sự thật về chất Akasha, và điều  này rốt cuộc cũng không phải bí mật lạ lùng gì hơn những hiện tượng đã có, chẳng  hạn như luồng sóng vô tuyến, tính chất phóng quang của chất radium, nguyên tử lực, hoặc trí nhớ của bộ óc con người, và sự truyền cảm của hệ thần kinh. Dẫu sao,  những cuộc soi kiếp của ông Edgar Cayce và sự đúng đắn một lạ lùng của nó là  một sự thật hiển nhiên. Trong khoảng 22 năm trường, bắt đầu từ năm 1923 trở đi  là năm mà ông Edgar Cayce bắt đầu soi kiếp và khám bệnh bằng Thần Nhãn, cho  đến năm 1945 là năm ông từ trần, ông đã soi kiếp cho tất cả khoảng 2.500 người.  Cũng như những cuộc khám bệnh bằng Thần Nhãn, những cuộc soi kiếp đều được  ghi chép trong các tập hồ sơ và được giữ gìn cẩn thận. Nhiều thư từ văn kiện đã  chứng minh cho sự đúng đắn của nhiều cuộc soi kiếp, mỗi khi có đủ bằng chứng  xác nhận về sự đúng đắn của những điều đã tiết lộ. Những người nào muốn tìm  biết sự thật về những điều này vẫn còn có thể chất vấn nhiều người hiện nay còn  sống và đã từng được ông Edgar Cayce soi kiếp cho họ.

Như vậy, nếu chúng ta có thể tin tưởng nơi tính cách chân thật của những tập hồ sơ văn kiện lạ lùng đó và sự giải đáp của nó về những bài toán bí hiểm của cuộc  đời, thì ta đã có trong tay một số tài liệu khổng lồ và hiếm có về vấn đề này. Trước  hết chúng ta có một số bằng chứng cụ thể hiển nhiên về luật Luân Hồi, là một  nguyên tắc tiến hóa căn bản của con người. Và tất cả những yếu tố kể trên cũng  chưa đủ để hoàn toàn thuyết phục chúng ta, thì ít nhất nó cũng đáng để cho chúng  ta chú ý vì mục đích khảo cứu và sưu tầm khoa học. Có biết bao những phát minh  lớn lao vĩ đại, lúc ban đầu cũng chỉ căn cứ trên những giả thuyết lạ lùng và khó  tin. Khi người ta hỏi nhà bác học Einstein bằng cách nào ông ta đã phát minh ra  thuyết Tương Đối Luận, ông đáp:

_ Tôi chỉ thử đưa ra một nghi vấn về một định lý.

Ngoài ra, chúng ta còn có một số tài liệu rất dồi dào về tâm lý, y lý và triết lý, nó  đem đến cho ta một tầm kiến thức rộng rãi và khác hẳn về cuộc đời.

Trong khoảng hai mươi hai năm đó có biết bao nhiêu người đau khổ tuyệt vọng đã  tìm đến ông Edgar Cayce và đã được ông săn sóc giúp đỡ do sự hiểu biết thâm sâu  và năng khiếu Thần Nhãn của ông. Họ bị đủ thứ đau khổ bệnh tật về thể xác lẫn  tinh thần, và tất cả đều muốn tìm sự giải đáp cho câu hỏi sau đây:

“Tại sao sự đau khổ này lại đến cho tôi?”

“Nguyên nhân vì đâu mà tôi bị sự đau khổ này?”

Không phải tất cả những trường hợp đó đều là nguy cấp hay tuyệt vọng. Có nhiều  người xem ra thì những kiếp trước họ cũng tầm thường như kiếp này, vì không có  gì đặc biệt. Nhưng, dẫu cho sự đau khổ của họ nặng hay nhẹ, các cuộc soi kiếp đã  chỉ cho thấy rằng cái thân phận và hoàn cảnh hiện thời của họ là cái kết tinh của  bao nhiêu nhân và quả nối tiếp lẫn nhau như những cái khoen của một sợi dây xích  và bắt đầu từ nhiều thế kỷ trước. Tất cả đều đã được chỉ cho thấy rằng những bệnh  tật, thống khổ của họ bây giờ đều có nguyên nhân xa hay gần, do sự hành động  của một định luật căn bản gọi là Luật Nhân Quả.

Những gì họ đã nghe và học hỏi đã làm cho họ thay đổi cuộc đời; sự hiểu biết  thâm sâu về bài học Nhân Quả đã giúp cho họ một nguồn an ủi cũng như tìm thấy  sự thăng bằng và an tịnh của tâm hồn.

Nếu người ta chấp nhận tính cách chân thật của những cuộc soi kiếp, người ta  cũng phải nhìn nhận sự kiện này là nó đã làm đảo lộn trí óc và quan niệm của họ về cuộc đời. Tầm quan trọng của sự việc kể trên không phải là nó đem đến cho ta  một giả thuyết mới: đó là một lý thuyết rất cổ xưa và đã từng là một điều tín  ngưỡng của nhiều dân tộc rải rác ở nhiều miền lục địa trên quả Địa Cầu. Những  cuộc soi kiếp của ông Edgar Cayce có một tầm quan trọng vì hai điều này:

Điều thứ nhất: đây là lần đầu tiên ở Âu Mỹ mà người ta đã có được những bản  phúc trình đúng đắn, mạch lạc, rõ ràng và đáng tin cậy về những kiếp trước của  một số nhiều người.

Điều thứ hai: đây là lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, những bản phúc trình đó  được ghi chép và sắp xếp thành hồ sơ có ngăn nắp, trật tự, để cho mọi người có  thể tra cứu, sưu tầm. Ngoài ra, những cuộc soi kiếp của ông Edgar Cayce đã hợp  nhất triết lý Đông Tây và làm cho nó càng thêm phần sâu sắc. Nhờ đó, chúng ta đã có một sự tổng hợp rất cần thiết giữa hai quan điểm triết học khác nhau của Đông  phương và Tây phương.

Những cuộc soi kiếp bằng Thần Nhãn của ông Edgar Cayce cũng đã tổng hợp  khoa học và tôn giáo bằng cách chỉ cho ta thấy rằng cõi tinh thần được cai quản  bởi những Luật Nhân Quả một cách đúng đắn cũng y như cõi vật chất. Nó cho ta  thấy rằng sự đau khổ của con người không phải là do một sự rủi ro tình cờ theo  quan niệm duy vật, mà là do bởi những tư tưởng và cách hành động sai lầm trong  quá khứ. Nó chỉ ra rằng những sự sai biệt và bất đồng giữa thân thế, hoàn cảnh và  khả năng của người đời không phải là do ý muốn độc đoán của Thượng Đế hay là  do ảnh hưởng mù quáng của sự di truyền, mà nó chỉ là cái kết quả của những hành  động và cách xử thế của con người trong kiếp trước.

Mọi sự đắng cay, thất bại, buồn rầu đều có một ý nghĩa và mục đích giáo hóa  chúng ta về đường xử thế; những bệnh tật tai ương xảy đến cho ta đều có một  nguyên nhân sâu xa về tinh thần. Và tất cả những sự quằn quại đau khổ đều là  những bài học quý mà chúng ta thọ lãnh trên trường học lớn của thế gian, ngõ hầu  trong tương lai nó sẽ đưa chúng ta đến cái mục đích Minh Triết và Toàn Thiện.

***

Tổng hợp sách trong Thư viện trái đất
Facebook page

ĐỂ LẠI NHẬN XÉT

Please enter your comment!
Please enter your name here