CÕI ÂM TOÀN TẬP (CÕI TRUNG GIỚI) – Chương 3 phần 4

0
196

CHƯƠNG III

CƯ DÂN CÕI TRUNG GIỚI (phần 4)

 

C. NHÂN TẠO:

Đây là loại lớn nhất trong số những thực thể cõi trung giới, và cũng là những thực thể quan trọng nhất đối với con người. Những thực thể này hoàn toàn do con người tạo ra, nên có liên quan tương tác lẫn nhau do sự trói buộc của nhân quả, chúng tác động trực tiếp và liên tục  lên con người.  Đó  là  một khối to  lớn những thực thể đơn sơ, có một phần trí tuệ, chúng khác biệt với nhau như sự khác  biệt  của tư tưởng con người,  trên thực  tế ta không thể nào sắp xếp hay phân loại chúng. Sự phân chia duy nhất và hữu ích có thể thực  hiện  được  là  phân  biệt loài tinh linh nhân tạo do phần đông nhân loại không ý thức tạo ra, và loài tinh linh  nhân tạo do các  thuật sĩ cố ý tạo ra. Ngoài ra có một số ít thực thể nhân  tạo, không phải là tinh linh được xếp vào loại thứ ba.

1. Loài tinh linh do vô ý tạo ra:

Có rất nhiều loài tinh hoa chất bao bọc chung quanh con người, chúng rất nhạy cảm với tư tưởng con người. Tư  tưởng thường ngày của con người đi lang thang và tác động vào loài tinh hoa chất, làm bùng lên thành một đám mây di động nhanh chóng, tạo ra những hình dạng mau  phai nhạt  như  đã được  mô  tả.  Bây giờ ta xét đến những tư tưởng hay ước muốn mạnh mẽ, có chủ đích xác định, ảnh hưởng thế nào đối với tinh hoa chất?

Tư tuởng mạnh mẽ, có chủ đích rõ rệt, gây ra ảnh hưởng có bản chất rất nổi bật. Tư tưởng bám lấy tinh chất mềm dẻo, tức khắc khuôn đúc chúng thành một thực thể sống  động  với  hình  thể  thích  hợp. Khi thực thể được tạo ra, sẽ không còn dưới sự kiểm soát của người tạo ra nữa. Nó có đời sống riêng biệt, thời gian tồn tại tỷ lệ với cường độ của tư tưởng hay ước muốn đã tạo ra nó, và sự tồn tại này kéo dài đến khi nào tư tưởng còn đủ mạnh để giữ chúng. Hầu hết tư tưởng con người quá yếu và không dứt khoát, nên những  tinh  linh  được  tạo  ra chỉ tồn tại vài phút hoặc vài giờ, nhưng một tư tưởng thường được lặp lại, hay một ước muốn chân thành sẽ tạo nên tinh linh tồn tại trong nhiều ngày.

Vì tư tưởng của người bình thường chỉ chú trọng cho riêng mình, nên những tinh linh được tạo ra cũng lảng vảng quanh họ. Những tinh  linh  này luôn luôn có  khuynh hướng khơi dậy trong trí  con người, để họ lặp  lại ý tưởng giống như ý tưởng đã tạo ra chúng, vì  khi lặp  lại ý tưởng cũ, thay vì  tạo ra tinh linh mới, nó chỉ củng cố thêm sinh lực  cho tinh linh đã có sẵn. Nếu một người thường xuyên ước muốn điều gì, sẽ tạo ra ở trung giới một thực thể luôn luôn sinh động, vì nó tiếp tục được nuôi dưỡng bởi cùng một tư tưởng càng ngày  càng tươi mới hơn.  Càng  được nuôi dưỡng, thực thể này  càng mạnh thêm và ảnh hưởng ngược lại người ấy, nó  có thể ám ảnh người ấy qua nhiều năm.  Nếu là điều ước muốn xấu xa, sẽ gây ảnh hưởng tệ hại đến bản chất đạo đức của người ấy.

Ngoài ảnh hưởng lên chính họ, tư tưởng của một người cũng có ảnh hưởng tốt hoặc xấu đối với người khác. Trong trường hợp này, tinh linh được tạo  ra  không  những  chỉ  bay lơ  lửng quanh người đã tạo ra nó, mà còn lảng vảng quanh đối tượng được người ấy nghĩ đến. Một tư tưởng tốt, hay một sự chúc lành chân thành cho một người nào, sẽ tạo ra và phóng đến người ấy một tinh linh nhân tạo thân  thiện.  Nếu  điều  chúc lành có mục đích xác định, như muốn cho người bạn được khỏi bệnh, thì tinh linh được tạo ra sẽ là một lực luôn bay lượn lẩn quẩn bên người bạn, trợ lực cho bạn chóng bình phục, và che chở cho bạn khỏi ảnh hưởng xấu. Đó là việc làm khôn ngoan và biết thích ứng trong cách sử dụng tư tưởng. Thật ra đó chỉ là cách dùng một lực, để nó tác động theo đường lối ít bị cản trở nhất, gây áp lực liên tục theo một chiều hướng, và tìm bất cứ con đường nào thuận lợi nhất,  cũng  như  nước  trong một bể chứa lớn, tìm một đường ống còn mở trong hàng tá đường ống đã khóa kín, để thoát ra ngoài.

Nếu điều ước muốn không xác định, mà chỉ  là  sự tốt đẹp  tổng quát,  với đặc tính mềm dẻo tuyệt vời, tinh hoa chất  sẽ đáp ứng đúng với ý tưởng không rõ ràng ấy, và thực thể được tạo ra sẽ tiêu dùng lực  của nó theo bất cứ chiều hướng  nào có lợi cho người mà nó gặp.  Trong mọi trường hợp, sức  mạnh của lực  nó  phải tiêu dùng, và thời gian nó tồn tại để  sử dụng lực ấy, tùy thuộc hoàn toàn vào sức mạnh của sự ước muốn hay tư tưởng đầu tiên đã tạo ra nó. Nó  có thể được tiếp sức làm cho mạnh thêm, và kéo dài đời sống bởi những ước muốn tốt đẹp hay những tư tưởng thân thiện cùng chiều hướng.

Cũng như hầu hết các thực thể khác, nó  dường như được  thúc  đẩy bởi bản năng muốn kéo  dài sự sống, vì thế nó  tác động lên người tạo ra nó, làm cho họ luôn trở lại cùng một ý tưởng ban đầu. Nó cũng tạo ảnh hưởng tương tự đối với những người mà nó tình cờ gặp, dĩ nhiên sự liên hệ này không được hoàn toàn.

Trong chiều hướng ngược lại, những ước muốn xấu xa hay những tư tưởng giận dữ, cũng tạo nên cùng một đáp ứng của tinh hoa chất giống như trên. Nếu kể đến khối lượng  những  đố  kỵ, căm thù, hiểm độc và mọi sự bất nhân trên thế giới, ta sẽ hiểu được tại sao trong số những tinh linh nhân tạo, có quá nhiều sinh vật thật khủng khiếp. Một người có tư  tưởng đầy thù hận, tàn bạo, vật dục, tham lam,  khi di chuyển  mang  theo  một bầu không khí độc hại, chứa đầy những thực thể ghê gớm do họ đã tạo ra và trở thành bạn đồng hành với họ. Không những chính họ  là người xấu xa đáng buồn, mà còn nguy hiểm và phiền phức cho người chung quanh, gây ảnh hưởng xấu cho những ai vô  phước tiếp  xúc  với họ, vì có thể bị truyền nhiễm bởi những điều xấu xa bao quanh họ.

Một tư tưởng đố kỵ, ghen ghét hay thù hận đối với người khác, sẽ gửi tinh linh nhân tạo xấu xa, lảng vảng chung quanh người đó và tìm điểm yếu để xâm nhập. Nếu tư tưởng xấu ấy vẫn còn tiếp tục,  sinh  vật  ấy sẽ luôn được nuôi  dưỡng và tồn tại lâu. Tuy nhiên, nó chỉ làm  hại được  khi người ấy có sẵn ý tưởng xấu làm điểm tựa tương ứng. Nếu gặp hào quang tốt đẹp của một người có tư tưởng trong sạch và nếp sống thanh khiết, nó không thể bám vào hay xâm nhập được. Theo luật phản hồi, nó quay trở lại người tạo ra, với tất cả sức mạnh tai hại.

Vì nhiều lý do, thỉnh thoảng có một tinh linh nhân tạo không thể tác động được trên người mà nó nhắm đến hay trên người tạo ra nó. Trong trường hợp này nó trở thành một yêu quái lang thang, sẵn sàng bị thu hút bởi người có tư tưởng giống như nó, khi ấy nó có  thể kích thích tư tưởng của người ấy để rút thêm sinh lực cho chính nó, hoặc tuôn đổ những sự xấu xa mà nó chứa đựng vào  người ấy qua những khuyết  điểm của anh ta. Nếu nó có đủ sức mạnh để chiếm cứ một ma hình nào, thường thì nó sẽ nắm lấy cơ hội,  vì  sự chiếm đoạt được  chỗ  cư trú tạm thời giúp  nó bảo toàn được năng lực khủng khiếp của nó. Trong hình thể ấy, nó  có thể biểu hiện qua một đồng cốt và giả danh một người nổi tiếng để có ảnh hưởng đến quần chúng.

Những điều trên đây cho thấy rằng chúng ta phải thận trọng trong việc kiểm soát tư tưởng. Có người tỏ ra tốt bụng trong lời nói và hành động, nhưng lại thả cho tư tưởng lang thang hỗn loạn,  vì  nghĩ  rằng tư tưởng là của riêng họ chứ không liên quan đến kẻ khác. Họ không biết là họ đã phóng vào thế giới một đám sinh vật bất thường. Những người này  cần hiểu biết về hiệu quả của tư tưởng và sự ham muốn, cũng như  về  sự sinh  hoạt của những tinh linh nhân tạo do tư tưởng và lòng ham muốn tạo ra.

Mặt khác, hiểu biết được  những điều này là  niềm an ủi cho  những người biết ơn, muốn đền đáp kẻ thi ân mà không  có phương tiện, không biết làm cách nào để trả ơn. Dù nghèo  hay giàu,  ai cũng có thể tạo được tư tưởng tốt đẹp để gửi  đến người mà họ thương yêu, ở bất cứ nơi nào.

Nhiều khi tư tưởng thương yêu của người mẹ  và  lời cầu nguyện  đã biến thành một thiên thần hộ mệnh, giúp đỡ và  bảo vệ đứa con, trừ trường hợp  gần như  không thể có, là  đứa trẻ không có bản năng đáp ứng với ảnh hưởng tốt. Người  có nhãn thông có thể thấy những thiên thần như vậy, có trường hợp một trong các vị thiên thần này có đủ năng lực hiện  hình trong chốc lát cho người thường có thể thấy được.

Một sự kiện lạ đáng ghi nhận nơi đây là một bà mẹ sau khi đã bước vào cõi trời chân phúc, tình thương bà tuôn tràn đến các đứa con mà bà tưởng là vẫn ở quanh bà, có tác  dụng đến các  đứa con còn ở cõi trần,  và nó  thường thêm sức cho vị thần hộ mạng mà bà đã tạo ra khi còn tại thế, cho đến khi những đứa con ấy qua đời. Bà Blavatsky có nói: “Tình thương của người mẹ luôn luôn được  các  con cảm nhận  trong cơ thể, nó cũng thể hiện trong những giấc  mơ của chúng, và thường là yếu tố bảo vệ để thoát  nạn  trong mọi biến  cố, vì tình thương là cái khiên che chở chắc chắn, vượt không  gian và thời gian.” (Chìa Khóa Thông Thiên Học).  Tuy nhiên,  mọi câu chuyện về  Thiên Thần hộ mệnh, không phải đều do tác  động của tinh linh  nhân tạo, có nhiều trường hợp vị “thần” ấy là  một người vẫn còn sống hay vừa từ giã cõi trần,  và đôi khi, tuy rất hiếm, cũng có thể là một vị Thiên Thần (Devas). (xem quyển “Những Vị Cứu Trợ Vô Hình”).

Sức mạnh của sự ham muốn chân thành, đặc biệt là nếu được lặp  lại thường  xuyên,  sẽ tạo  ra  một tinh linh sống động, luôn cố gắng theo chiều hướng  đạt được  mục  đích. Đó  là  cách giải thích khoa học cho người sùng đạo nhưng  kém hiểu biết, gọi là sự đáp ứng cho lời cầu nguyện.  Có  trường  hợp  mà  nghiệp  quả của người cầu xin có thể cho họ được hưởng sự giúp đỡ trực tiếp của một vị Chân Sư hay đệ tử của Ngài, hiếm hơn nữa là sự can thiệp của một vị Thiên Thần hay vài tinh linh thiên nhiên thân  thiện.  Trong các  trường  hợp  như  vậy, cách dễ nhất để trợ giúp là làm tăng thêm sức mạnh của tinh linh nhân tạo đã được sinh ra  bởi ước  muốn của người cầu nguyện, hoặc hướng dẫn tinh linh này đi theo một hướng khôn ngoan hơn.

Một trường hợp lạ lùng về sự tồn tại rất lâu của loài tinh linh nhân tạo trong điều kiện thuận lợi, đã được một trong những người nghiên cứu của nhóm chúng tôi ghi nhận. Những ai đã đọc qua các sách về đề tài này đều biết có nhiều gia  tộc xưa ở Anh quốc có truyền thống là được báo trước ngày chết của một người nào đó trong gia đình. Thường vài ngày trước khi một người trong gia đình chết, có hiện tượng lạ xảy ra.  Một thí  dụ điển hình là  câu chuyện về con chim trắng của Oxenhams, sự xuất hiện của nó được nữ hoàng Elizabeth ghi nhận rằng đó là điềm báo trước sự ra đi của một thành viên trong gia tộc. Một thí dụ khác là bóng ma của một chiếc xe ngựa được nhìn thấy chạy lên cửa của một lâu đài ở  hướng bắc khi một tai họa gần kề.

Một hiện tượng tương tự xảy ra cho  gia  đình một hội viên,  hiện tượng này xảy ra thường hơn, nhưng không rõ rệt  như những trường hợp kể trên. Đó chỉ là  âm thanh  trang  trọng của một bài nhạc truy điệu buồn, được nghe văng vẳng trong không gian, ba ngày trước khi có người qua đời. Người hội viên này đã nghe được hai lần âm thanh huyền bí ấy,  và cả hai trường hợp điềm báo đều chính xác. Người ấy cũng biết rằng, theo truyền thống gia đình, sự việc ấy đã xảy ra từ nhiều thế kỷ. Điều này thúc đẩy người ấy tìm hiểu nguyên nhân ẩn tàng của hiện tượng lạ lùng đó bằng phương pháp huyền môn.

Kết quả ngoài sự mong đợi, nhưng rất đáng chú ý. Đó là vào thời xa xưa khoảng thế kỷ thứ mười hai, một người trưởng tộc đã tham dự vào cuộc viễn chinh của  thập  tự  quân.  Để  khuyến khích mình trong trận thánh chiến, ông đem theo đứa con trai út mà ông thương nhất, với lòng mong ước đứa trẻ sẽ thành công trong tương lai. Rủi thay, đứa trẻ bị tử trận, làm người cha rất đau khổ, thất vọng, vì mất con và mất cả đời sống trẻ trung đầy hứa hẹn của nó.

Quá đau buồn, người cha từ bỏ chiến bào, hiến thân vào tu viện với ý nguyện dâng hiến trọn cuộc đời còn lại để cầu nguyện, trước là cho  linh  hồn con ông,  và thứ  đến là  sẽ không có  người hậu duệ nào gặp phải sự nguy hiểm kinh khủng là chết mà không được báo trước. Ngày qua ngày, trong nhiều năm ông đã dùng tất cả năng lực tinh thần cho lòng ước muốn mạnh mẽ ấy. Ông có lòng tin vững chắc rằng  bằng cách này  hay  cách khác,  kết  quả của sự mong muốn ấy sẽ được thực hiện.

Người có học khoa huyền bí đều biết kết quả tạo ra bởi một tư tưởng xác định và lâu dài. Vị tu sĩ ấy đã tạo nên một tinh linh nhân tạo có năng lực vô biên để thực hiện mục  đích đặc biệt, tinh linh được tạo ra này đã tích trữ một kho năng  lực dồi dào giúp nó hoàn thành lời ước nguyện đến một thời gian vô tận. Một tinh linh nhân tạo giống như một “bình nạp điện” hoàn hảo, không dò rỉ. Trong trường hợp này năng  lượng  ban đầu được  tích trữ rất nhiều, mà cách nó sử dụng tương đối ít, cho nên đến bây giờ nó vẫn còn sống động, và có  thể báo  trước  cho các hậu duệ của người chiến binh Thập Tự Giá ngày sắp lìa trần, bằng cách lặp lại bài hát chiêu hồn tử sĩ  cho  đứa  con đã tử trận 800 năm trước tại Palestine.

2. Loài tinh linh do cố ý tạo ra:

Những tinh linh nhân tạo được mô tả ở trên đều do sức mạnh của tư tưởng tạo ra, mà người tạo ra nó không hề biết đến. Nếu một thuật sĩ hiểu rõ  vấn đề, ông ta có thể cố ý tạo  ra và sử dụng một sức  mạnh rất lớn theo đường lối ích kỷ  của ông. Sự thật là các nhà huyền môn thuộc  bạch phái (chánh đạo), cũng như hắc phái (tà đạo) đều sử dụng tinh linh nhân tạo trong công việc của họ. Khi một tinh linh nhân tạo được tạo  ra một cách khoa học, và được điều khiển khéo  léo thì ít khi nó bị thất bại trong công tác. Người hiểu biết rõ việc  này thường giữ  sự liên hệ với tinh linh mà họ đã tạo ra và điều khiển nó dù ở rất xa, như vậy nó vẫn có thể hoạt động khôn ngoan như chủ của nó.

Đôi khi một “Thiên Thần” hộ mệnh cũng được tạo ra theo cách thức này, tuy nhiên còn tùy theo nhân quả, đến lúc phải trả nghiệp quả thì hiếm khi vị “Thiên Thần” hộ mệnh này có thể can thiệp được. Trường hợp đệ tử của các Chân Sư đang làm việc phụng sự cho các Ngài,  không đủ sức  đuơng đầu với sự tấn công của những lực  lượng xấu, thì  các Ngài  có thể gởi một vị thần hộ mạng năng lực mạnh mẽ, thường trực bảo vệ người đệ tử.

Những người hắc phái cao cấp cũng có thể tạo ra tinh linh có năng lực rất lớn, gây ra nhiều tội ác. Tuy nhiên cũng  giống như loại tinh linh do  vô ý tạo ra, khi không hại được đối tượng có đời sống trong sạch đạo đức, thì chúng sẽ quay lại với một sức mạnh khủng khiếp  hại người đã tạo ra chúng. Như thế, câu chuyện về một thù thủy thời trung cổ bị tà ma do chính ông ta tạo ra và nuôi nấng, xé xác ra từng mảnh,  không phải hoàn toàn hoang tưởng mà có căn bản xác định.  Một trường hợp điển hình của định luật này đã xảy ra trước đây trong thời gian đương nhiệm của vị hội trưởng trước.

Vì nhiều nguyên do khác nhau, đôi khi tinh linh nhân tạo thoát khỏi sự kiểm soát của người muốn sử dụng chúng, và trở thành yêu tinh lang thang không mục đích, như đã được  đề cập  ở phần trước.  Tuy nhiên,  loại mà  chúng ta đang đề cập nơi đây có nhiều trí khôn, năng lực  và đời sống kéo  dài hơn,  và cũng nguy hiểm hơn.  Chúng luôn tìm cách để kéo  dài thêm đời sống, bằng cách hút sinh lực con người, giống như ma cà rồng hút máu, hoặc gây ảnh hưởng để con người cung cấp sinh lực cho chúng. Ở các bộ lạc  bán khai, do có một phần trí khôn, chúng thường thành công trong việc  làm  cho dân chúng chấp nhận như những thần linh của làng mạc hay gia đình.

Cấp thấp và đáng ghê tởm nhất của các  thần  linh  thuộc  loại này  thường đòi hỏi sự cúng tế có máu. Những cấp ít xấu hơn, có khi bằng lòng với vật thực cúng tế như cơm gạo và các thức ăn nấu chín đủ loại. Hiện tại ở Ấn Độ cũng còn  vài nơi thờ cúng những vị thần kể trên, và ở Phi Châu tương đối còn nhiều hơn.

Do thụ hưởng những vật thực  cúng tế,  và  cũng do  sinh lực  rút ra được từ những người ngưỡng mộ, chúng có thể tiếp tục kéo dài sự sống đến nhiều năm hay nhiều thế kỷ, và vẫn còn đủ năng lực thực  hiện  vài hiện tượng thấp thỏi, để  kích thích lòng tin và sự sốt sắng của dân làng. Chúng cũng tỏ  ra khó chịu bằng cách này hay cách khác, khi sự dâng  cúng thường lệ bị lãng quên. Thí dụ ở một làng nọ của xứ Ấn Độ, dân chúng thấy rằng vì một lý do  nào đó  họ không dâng cúng vị thần trong làng như thường lệ,  thì  một chòi tranh  trong làng tự nhiên bị bốc cháy, đôi khi ba hay bốn cái  bốc cháy một lượt, mà họ không thể nghi ngờ là  do  con người gây ra.  Những  câu chuyện tương tự cũng được thấy ở khắp các miền thôn dã xa xôi của mọi quốc gia.

Các thuật sĩ thời Atlantis có kỹ thuật đặc biệt tạo ra các tinh linh nhân tạo mạnh mẽ và độc hại,  đó là những vị “thần mặt đen.” Trong “Giáo Lý Bí Truyền” có kể một thí dụ về những con thú lạ lùng biết nói ở châu Atlantis, chúng chỉ chịu yên lặng khi được dâng máu tươi, chúng đánh thức chủ của chúng và báo động về nguy cơ bị hủy diệt sắp xảy ra. Ngoài những con thú lạ kỳ ấy, họ còn tạo  ra những thực  thể nhân tạo có sức mạnh kinh khủng, mà một số vẫn còn tồn tại cho  đến ngày nay, mặc dù đã trải qua hơn mười một ngàn năm kể từ khi tai họa khủng khiếp đã nhận chìm các chủ nhân của chúng.  Một nữ thần khủng khiếp  của Ấn Độ, nữ thần Kali đáng kinh khiếp, thường xúi giục  những người tôn sùng phạm  tội ác giết người cướp của,  cho  đến ngày nay cũng còn được  sùng bái bằng những nghi lễ rất ghê sợ. Đây là di tích còn lại của một cơ cấu đã bị tiêu diệt, với cái giá của sự nhận chìm một lục địa (châu Atlantic) với 65 triệu người.

3. Con người nhân tạo:

Loại thực thể này rất ít, chỉ vài cá nhân, nhưng có liên  hệ đến một trong những phong trào  rất quan trọng của thời hiện tại. Những thực thể này tuy đúng là con người, nhưng không được xếp theo  nhóm nhân loại,  vì  đã từ lâu  bị loại ra khỏi đường tiến hóa bình thường. Loại này hoàn toàn là sản phẩm của ý chí từ bên ngoài, nên được xếp vào hàng những thực thể nhân tạo.

Cách dễ nhất để mô tả chúng  là  bắt đầu xét về lịch sử của chúng, như thế, ta cần trở về thời của giống dân Atlantic. Sự kiện quan trọng vào thời ấy là có sự hiện diện của các vị Chân Sư và các trường phái huyền bí, nhưng vào giai đoạn cuối của giống dân ấy đã có những người thực hành ma thuật rất khủng khiếp. Trước giai đoạn sa đọa, ích kỷ của dân chúng, châu Atlantic có một nền văn minh rực rỡ, cao  quí  đáng ngưỡng mộ, và trong số những người lãnh đạo thời ấy,  hiện nay đã đạt được quả vị cao cả nhất của loài người.

Trong số các đạo viện huyền môn dành cho những đệ tử dự bị điểm đạo, được thành lập do các vị Chân Sư chánh đạo, có một đạo viện ở một nơi nào đó của châu Mỹ,  phụ thuộc vào một hệ thống lãnh đạo lớn, đó là “Những Vị Cai  Quản Thiêng Liêng của Kim Môn” (the  Divine  Rulers  of the Golden Gate). Dù đã trải qua nhiều cuộc thăng trầm lạ lùng, trụ sở phải dời từ nước này sang nước khác, và đến lượt mỗi nơi lại bị nền văn minh vật chất xâm lấn, nhưng đạo viện ấy vẫn tồn tại đến ngày nay.  Đạo  viện  ấy vẫn còn giữ nguyên những nghi thức cổ xưa, và dạy một loại ngôn ngữ linh thiêng  bí ẩn, cùng một ngôn ngữ của người Atlantic đã dùng nhiều ngàn năm trước.

Nó vẫn giữ được y như buổi đầu, là một đạo viện huyền môn với mục đích bác ái trong sáng, có thể hướng dẫn các môn sinh xứng đáng đi khá xa trên đường phát triển  trí  tuệ,  nhưng năng lực tâm linh chỉ trao tặng cho những môn sinh xứng đáng, đã vượt qua những cuộc trắc nghiệm nghiêm chỉnh. Các vị thầy trong đạo  viện  chưa đạt đến cấp bậc Chân  Sư, hàng trăm môn sinh trong đạo viện học cách đi vào đường đạo dẫn đến quả vị thánh sư ở những kiếp tương lai. Dù không trực tiếp thuộc về Đại Đoàn Chưởng Giáo ở Hy Mã  Lạp  Sơn,  nhưng vài vị trong đạo viện đã có liên hệ với đoàn thể này trong những kiếp trước, nên vẫn giữ mối liên hệ thân hữu hơn bình thường. Tôi nhớ  có  lần ông viện trưởng của đạo viện ấy, khi nhìn thấy bức ảnh của một trong các vị Chân Sư Minh Triết, tức khắc quì mọp xuống trước bức ảnh, tỏ lòng tôn kính sâu xa.

Các vị viện trưởng của đạo viện, dù luôn giữ cho mình và đạo  viện  xa lánh xã hội bên ngoài, nhưng đôi khi nếu có dịp, cũng trợ giúp phổ biến chân lý cho thế giới. Khoảng một thế kỷ trước, sự lan tràn của chủ nghĩa duy vật đã gần như làm tắt nghẽn sự phát triển tâm linh ở Âu Châu và Mỹ Châu, nên các vị quyết định  thử  chống lại ảnh hưởng ấy bằng phương thức mới: các vị đưa cơ hội đến cho những người biết suy nghĩ  hợp lý,  để họ có thể có được bằng chứng tuyệt  đối về một đời sống khác, tách rời khỏi đời sống của thể xác, đời sống mà khoa học có khuynh hướng phủ nhận. Những hiện tượng được trưng bày không phải hoàn toàn mới, vì dưới vài hình thức, con người đã nghe nói đến qua lịch sử,  nhưng cách tạo ra và sắp xếp các hiện tượng ấy rõ ràng là mới đối với thế giới tân tiến hiện nay.

Các vị khơi động dần dần và tạo được cấu trúc rộng lớn của phong trào giáng thần học hiện đại. Tuy các vị khởi xướng cũng có phần nào trách nhiệm về những hậu quả gây ra về sau, nhưng ta phải công nhận rằng các vị đã đạt được mục đích là gây sự tin tưởng vững chắc  cho số đông nhân loại đời sống tương lai,  tức đời sống sau khi bỏ xác thân. Đó  là một kết quả vĩ đại, dù phải trả một giá quá đắt.

Phương pháp được sử dụng là chọn vài người bình thường sau khi chết, giúp cho  họ  thức  tỉnh hoàn  toàn ở cõi  trung giới, dạy cho họ sử dụng vài năng lực để họ có thể làm các  việc  thuộc  cõi này,  và  để cho họ lãnh trách nhiệm hướng dẫn bên trong một nhóm giáng thần. Sau đó họ lại huấn luyện một số  người vừa  từ trần để làm việc theo cùng đường lối. Những người này sẽ tác động lên  các  người tham dự buổi cầu hồn, làm cho họ  trở thành những đồng cốt, do đó phong trào giáng thần phát triển rất mạnh. Những thành viên còn sống của đạo viện đôi khi cũng sử dụng thể vía của chính mình đến tham dự các nhóm giáng thần,  có lẽ  các  vị vẫn còn làm như vậy cho  đến ngày nay.  Tuy nhiên, thường  thì các vị ấy chỉ đóng vai trò huấn luyện cho  các  vong  linh  mà  các  vị giao phó trách nhiệm. Phong trào giáng thần đã phát triển nhanh hơn sự mong đợi, và chẳng bao lâu vượt quá sự kiểm soát của đạo viện, nhất là càng về sau, các vị không còn đủ sức gánh vác trách nhiệm trực tiếp nữa.

Sự kéo dài cuộc sống cõi trung giới của những người lãnh trách nhiệm hướng dẫn ở những nhóm giáng thần, đã làm chậm trễ con đường tiến hóa tự nhiên của chính họ, dù sự chậm trễ  cũng sẽ được  đền bù thỏa đáng do  nghiệp quả tốt mà họ đã giúp người khác hiểu được chân lý.  Các  vị trong  đạo  viện nhận thấy rằng nếu dùng những “vong linh hướng dẫn” quá một thời gian nào đó, sẽ có thể gây tổn thương nặng nề và vĩnh viễn cho họ. Đôi khi vong linh hướng dẫn được thay thế bởi vong linh khác. Có những trường hợp, vì một lý do nào  đó, sự thay thế như vậy sẽ bất lợi,  và một phương pháp đặc biệt được sử dụng để cho ra đời một loại sinh vật mà ta gọi là “con người nhân tạo”.

Sau một thời gian chậm trễ trên đường tiến hóa, những thể cao của “người hướng dẫn” được tách ra để chuyển qua cõi trời chân phúc, nhưng u hồn (the shade) của họ  để lại cõi trung giới được giữ cho sống động và làm cho mạnh thêm  để có thể vẫn hoạt động trong những nhóm giáng thần. Việc làm mạnh thêm cho u hồn này, lúc đầu được thực hiện bởi những nhân viên trong đạo  viện,  nhưng  công việc  có vẻ buồn chán hoặc không thích hợp, nhất là làm lãng phí năng lực, và có cùng bất tiện như việc  dùng một tinh linh nhân tạo. Do đó các vị trong đạo viện quyết định chọn những người chết  kế tục làm “vong linh hướng dẫn”, sử dụng u hồn hay ma hình của người hướng dẫn trước  bỏ  lại, bằng cách khoác lấy  bên ngoài họ.

Có vài thành viên của đạo viện không đồng ý việc  làm ấy, vì  cho rằng dù mục  đích hoàn toàn tốt đẹp nhưng là một sự phỉnh lừa. Ý kiến chung cho rằng dù sao u hồn được sử dụng vẫn là một, và nó cũng còn chứa đựng một phần thể hạ  trí của người trước, nên không có vấn đề phỉnh lừa. Có những trường hợp sự thay đổi từ người hướng dẫn đã ra đi, bởi người sau sử dụng lại u hồn của người trước, không gây nên nghi ngờ  trong  nhóm  giáng thần. Trái lại, có vài người chuyên khảo sát về phong trào giáng thần, sau một thời gian  quan  sát,  ghi nhận có sự đổi khác trong cử chỉ và phong cách của “vong linh”. Cần nói rõ, không có  vị nào trong  Đại Đoàn  Chưởng Giáo đã tạo ra một thực thể nhân tạo như vậy, nhưng các vị cũng không can thiệp vào những việc  mà người khác nghĩ  rằng đúng. Nhược điểm trong việc  làm ấy là  có nhiều người khác ở bên ngoài đạo viện có thể sử dụng cùng cách thức, và cũng không thể ngăn cản được các thuật sĩ hắc đạo đã và đang làm giống như vậy với mục đích xấu.

Đến đây chúng ta có thể kết luận cuộc khảo  sát về các cư dân cõi trung giới; thêm phần sau, có thể nói chúng ta đã liệt kê tương đối khá đầy đủ những vấn đề thuộc cõi trung giới. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng, quyển sách này chỉ trình bày sơ lược về một đề tài rất rộng lớn, mà sự nghiên cứu chi tiết đòi hỏi một công trình nặng nhọc kéo dài cả một đời người.

ĐỂ LẠI NHẬN XÉT

Please enter your comment!
Please enter your name here