CÕI TRỜI CHÂN PHÚC – PHẦN 1: NHÂN LOẠI

0
158

1. NHÂN LOẠI (HUMAN)

Cũng như khi nghiên cứu cõi trung giới, những cư dân thuộc con người ở cõi thượng giới cũng  được phân chia thành hai nhóm: những người còn sống với thể xác ở cõi vật chất, và những  người không còn thể xác ở cõi vật chất.

Người đời thường gọi một cách nhầm lẫn giữa sống và chết. Chỉ cần có một chút kinh nghiệm ở những cõi cao này cũng đủ thay đổi trên căn bản, quan niệm của học giả về những chuyển biến  xảy ra lúc con người “chết”. Ngay lúc ấy, có sự mở rộng của tâm thức con người về cõi trung giới,  hoặc hơn nữa về cõi thượng giới. Họ nhận thấy trọn vẹn sự sống thực sự, mà khi còn ở cõi vật  chất họ chưa bao giờ biết đến. Con người rời bỏ cõi vật chất để “đi vào” đời sống thực sự, chứ không phải ra khỏi nó. Hiện tại, trong Anh ngữ không có những từ ngữ thích hợp và chính xác để diễn tả những tình trạng này. Một cách tổng quát, có lẽ từ ngữ “hiện thân” (embodied) và “không  hiện thân” (disembodied) ít gây hiểu lầm hơn những từ ngữ khác. Như vậy, chúng ta hãy nghiên  cứu những cư dân ở cõi thượng giới, theo sự sắp xếp thành những tiêu đề như đã nói ở trên.

NHỮNG HIỆN THÂN (THE EMBODIED)

Những người trong khi còn giữ xác thân hoạt động với đầy đủ tâm thức và linh hoạt hoàn toàn  trên cõi thượng giới, chính là những vị Chân Sư và các đệ tử được điểm đạo của các Ngài. Vì chỉ đến khi người đệ tử được Chân Sư truyền dạy cách sử dụng thể trí, họ mới có thể di chuyển tự do, nhất là ở những cảnh thấp của cõi thượng giới. Trong lúc còn sống ở cõi trần, để có thể hoạt  động có ý thức trên những cõi cao, con người cần phải phát triển nhiều hơn, vì khả năng này  cũng đồng nghĩa với sự hợp nhất của con người. Như thế khi ở cõi trần, họ không chỉ là một  phàm ngã thuần túy, mà họ có được ít nhiều ảnh hưởng từ chân ngã ở trên. Nói khác đi, họ là  chân ngã bị ngăn cản và giam giữ bởi xác thân; nhưng chắc chắn rằng trong con người của họ có năng lực và sự hiểu biết của chân ngã tiến hóa cao.

Những người đã có nhãn quan cõi thượng giới, nhìn thấy các vị Chân Sư và những đệ tử điểm  đạo xuất hiện với một vẻ rất tuyệt vời, như những quả cầu lộng lẫy đầy ánh sáng và màu sắc. Đi  đến đâu, các Ngài xua đuổi những ảnh hưởng xấu ác đến đó và tác động lên tất cả người nào  đến gần các Ngài, như mặt trời tác động lên các loài hoa. Các Ngài tỏa ra chung quanh niềm an  lạc và hạnh phúc; ngay đối với những người không thấy được các Ngài cũng cảm nhận được.  Chính ở cõi trời này mà phần lớn công việc quan trọng nhất của các Ngài được hoàn thành, nhất  là trên những cảnh cao của cõi thượng giới, nơi chân ngã có thể được ảnh hưởng trực tiếp.

Chính từ cõi này, các Ngài tuôn xuống những ảnh hưởng tâm linh to lớn lên thế giới của tư  tưởng; cũng chính ở đó, các Ngài thúc đẩy tất cả những phong trào quan trọng và hữu ích cho  con người. Từ cõi này, nhiều sức mạnh tâm linh từ những vị Ứng Thân (Nirmanakayas) hy sinh  cao cả được phân phát. Cũng nơi đây, những giáo huấn trực tiếp được ban cho những đệ tử tiến  hoá cao có đủ tư cách tiếp nhận; vì ở đó, giáo huấn được truyền đạt dễ dàng và đầy đủ hơn ở cõi  trung giới. Ngoài những điều kể trên, đây là một môi trường lớn để các Ngài lo cho công việc liên  quan đến những người mà chúng ta gọi là đã chết; chúng ta sẽ bàn đến điều này trong một  chương khác.

Thật thích thú khi nhận thấy, một nhóm cư dân mà chúng ta ép buộc phải đề cập đến ở cõi trung  giới, hoàn toàn vắng mặt nơi đây. Vì đặc tính của thế giới này là không ích kỷ và hướng về tinh  thần, cho nên các vị bàng môn tả đạo và những đệ tử của họ hiển nhiên là không có chỗ dung  thân. Sự ích kỷ là bản chất của các trường phái tà giáo, và họ nghiên cứu những sức mạnh  huyền bí hoàn toàn để phục vụ cho mục đích cá nhân. Trong số những người ấy, có nhiều người  phát triển trí năng rất cao, vì thế chất liệu cấu tạo nên thể trí của họ rất linh hoạt và nhạy cảm  theo vài đường hướng đặc biệt. Nhưng trong mọi trường hợp, những đường hướng này được  kết nối với vài loại tham vọng cá nhân, do đó chúng chỉ có thể diễn đạt xuyên qua phần thấp của  thể trí, mà nó đã trở nên vướng mắc với chất liệu cõi trung giới, không thể gỡ ra được. Do những  lý do ấy, mà hoạt động của những người này bị giới hạn ở cõi trung giới và cõi trần. Một người  sống với khuynh hướng ích kỷ và xấu ác, đôi khi cũng có những tư tưởng trừu tượng; khi ấy họ cũng có thể sử dụng thể trí nếu họ đã học được cách sử dụng thể này, nhưng ngay khi có yếu tố cá nhân xen vào, và muốn đạt được vài mục đích xấu, tư tưởng này không còn trừu tượng, và  một lần nữa sự hoạt động của người ấy được nối kết với chất liệu quen thuộc với họ trong cõi  trung giới. Người ta có thể nói rằng, một huynh đệ trong bóng tối (black magician) chỉ có thể hoạt  động trên cõi thượng giới, nếu họ đã quên chính họ là một người bàng môn tả đạo (black  magician). Nhưng dù cho họ quên điều đó, họ chỉ có thể được nhận thấy trên cõi thượng giới đối với những người có tâm thức linh hoạt trên cõi đó, nhưng không bao giờ được nhận thấy đối với  những người đang nghỉ ngơi, hưởng phúc lạc nơi cõi thiên đàng sau khi từ trần; vì mỗi người này  hoàn toàn ẩn dật trong thế giới tư tưởng riêng của họ, và không có điều gì bên ngoài có thể ảnh  hưởng đến họ, vì vậy họ tuyệt đối an toàn. Điều này biện minh cho sự diễn tả xưa về cõi thiên  đàng, như là một nơi mà “người hung ác không còn quậy phá và những linh hồn mệt mỏi được  nghỉ ngơi.”

TRONG GIẤC NGỦ HOẶC XUẤT THẦN

Khi bàn về những linh hồn còn giữ xác thân ở cõi trần, đi vào cõi thượng giới, một câu hỏi tự nhiên được nêu ra: Một người tầm thường trong giấc ngủ, hoặc một người trong trạng thái xuất  thần, có bao giờ được vào cõi này không? Câu trả lời cho cả hai trường hợp là điều đó có thể xảy ra, nhưng rất hiếm. Cuộc sống trong sạch và có lý tưởng là một điều kiện tiên quyết và  tuyệt đối; khi chưa có đủ điều kiện này, cho dù họ có đến được cõi đó, họ cũng chưa có được ý  thức thực sự, mà chỉ có khả năng tiếp nhận được vài ấn tượng.

Để giải thích về việc con người có thể vào cõi thượng giới trong khi xác thân đang ngủ, chúng ta  có thể nhắc lại một trường hợp xảy ra, có liên hệ đến những thí nghiệm về tâm thức trong trạng thái nằm mơ do hội Thông Thiên Học ở Luân Đôn thực hiện. Vài điều của thí nghiệm này được  kể lại trong quyển sách nhỏ của tôi có tựa “Những Giấc Mơ”. Những người đã đọc quyển sách này, có thể nhớ lại hình ảnh tư tưởng (thought-picture) về một quang cảnh rất đẹp vùng nhiệt đới,  xuất hiện trong trí của nhiều hạng người khác nhau, trong lúc họ đang ngủ, và họ nhớ lại đến một  mức độ nào đó khi thức dậy. Trong các trường hợp được thí nghiệm, có một trường hợp đặc biệt  không liên quan đến hiện tượng giấc mơ, trường hợp này được trình bày sau đây.

Đó là một người có tư tưởng trong sạch, có khả năng tâm linh, nhưng chưa được huấn luyện.  Hình ảnh tư tưởng xuất hiện ra trong trí của cô có đặc tính khá bất ngờ. Hạnh phúc tuyệt diệu và  những tư tưởng tâm linh cao cả được khiêu gợi do sự chiêm ngưỡng quang cảnh tuyệt vời này;  như thế lúc đang ngủ, tâm thức sẽ hoàn toàn chuyển qua thể trí; hoặc nói cách khác, được nâng  lên đến cõi thượng giới. Tuy nhiên, từ đó không thể ức đoán rằng cô ấy nhận thức được những  gì chung quanh và tình trạng thực sự nơi cõi ấy. Cô ta chỉ ở trong trạng thái một người tầm  thường đến cõi thượng giới sau khi chết; trôi nổi trong biển ánh sáng đầy màu sắc, tuy nhiên cô  cũng hoàn toàn thấm nhập vào tư tưởng của riêng cô và không ý thức điều gì bên ngoài. Cô an  nghỉ trong sự chiêm ngưỡng ngây ngất cảnh trí và tất cả những ý tưởng gợi lên cho cô. Dĩ nhiên,  sự mặc tưởng này kèm theo thị giác thông suốt; với một nội tâm sắc sảo, sự cảm nhận càng  hoàn toàn hơn. Năng lực tư tưởng đặc biệt ở cõi thượng giới tăng lên, và cường độ phúc lạc  cũng cao hơn. Trạng thái này duy trì qua nhiều giờ, mặc dù hoàn toàn không có ý thức về thời  gian. Sau cùng khi thức dậy, cô cảm thấy một sự bình an thâm sâu và một sự an vui nội tâm  không thể giải thích được, vì cô không nhớ lại được những gì đã xảy ra. Tuy nhiên, dù bộ óc vật  chất có nhớ lại được hay không, chắc chắn kinh nghiệm này có tác động thúc đẩy sự tiến hoá  tâm linh của linh hồn.

Với số trường hợp thí nghiệm không nhiều, nên không đủ đưa ra kết luận vững chắc, nhưng có  một điều gần như chắc chắn là kết quả được diễn tả ở trên, chỉ có thể xảy ra trong trường hợp  một người đã đạt được một vài trình độ khai mở tâm linh. Đối với trường hợp thôi miên, cũng cần  điều kiện như vậy để một người trong trạng thái xuất thần có thể đạt tới cõi thượng giới. Điều này  thực sự là như thế, có lẽ chưa có đến một người trong số một ngàn người có thông nhãn bình  thường có thể đạt đến cõi đó. Tuy nhiên như tôi đã nói, trong trường hợp rất hiếm ấy, người có  thông nhãn đạt tới cõi thượng giới, chẳng những là người đã khai mở một cách đặc biệt, mà còn  phải có đời sống và mục đích trong sạch. Ngoài những điều kiện đặc biệt như trên, người mới  khai mở năng khiếu tâm linh cũng còn gặp phải sự khó khăn trong việc diễn dịch lại chính xác  theo ngôn ngữ phàm trần những gì đã thấy ở cõi trên. Dĩ nhiên tất cả những sự lưu tâm trên đây,  chỉ để nhấn mạnh về sự cần thiết của việc huấn luyện kỹ càng tất cả các nhà tâm linh, dưới sự hướng dẫn của một vị thầy có đủ khả năng, trước khi những tường trình về những gì họ đã thấy  ở cõi cao được chúng ta tin tưởng.

NHỮNG NHÂN VẬT KHÔNG CÒN GIỮ XÁC THÂN

Trước khi khảo sát chi tiết tình trạng của những thực thể không còn xác thân, ở những cảnh khác  nhau của cõi thượng giới, chúng ta cần phải phân biệt rõ ràng sự khác nhau giữa hai vùng “sắc  tướng” (rupa) và “vô sắc tướng” (arupa) mà chúng ta đã đề cập ở trên. Ở vùng sắc tướng, con  người hoàn toàn sống trong thế giới tư tưởng của riêng họ, vẫn hoàn toàn đồng hóa với phàm  ngã trong kiếp họ vừa rời bỏ. Ở vùng vô sắc tướng, con người chỉ là chân ngã luân hồi  (reincarnating ego) hay linh hồn. Nếu là người đã phát triển tâm thức đủ để nhận biết khá rõ ràng  sự vật ở cõi này, sẽ hiểu đến mức độ nào đó mục tiêu tiến hóa mà họ đang theo đuổi, và công  việc mà họ phải thực hiện.

Nên nhớ mỗi người phải trải qua cả hai giai đoạn này, giữa lúc chết và lúc sinh. Đa số những  người chưa tiến hóa có ý thức rất ít về các cõi này, chúng ta có thể nói rằng, họ trải qua giấc mơ  xuyên qua hai cõi đó. Dù có ý thức hay không, tất cả nhân loại đều phải tiếp xúc các cảnh cao  của cõi thượng giới, trước khi họ có thể tái sinh. Khi con người tiến hóa nhiều hơn, sự tiếp xúc  này càng trở nên rõ ràng và thực đối với họ. Không những con người càng trở nên có ý thức  nhiều hơn, mà thời gian họ trải qua thế giới này cũng lâu dài hơn; vì tâm thức con người được  nâng lên một cách chậm chạp nhưng vững chắc, xuyên qua các cõi khác nhau của hệ thống tiến hóa.

Thí dụ, người nguyên thuỷ tương đối có ít tri thức về các cõi khác, ngoại trừ cõi trần trong lúc họ sống; và những cảnh thấp của cõi trung giới sau khi họ chết; điều này cũng giống như đối với  những người chưa tiến hóa trong xã hội chúng ta ngày nay. Người tiến hoá hơn một chút, giữa  hai lần tái sinh, sẽ trải qua một thời kỳ lưu ngụ ngắn ở cõi thiên đàng (dĩ nhiên là ở các cảnh  thấp), nhưng họ vẫn phải trải qua một thời gian lâu hơn ở cõi trung giới. Con người càng tiến  hoá, kiếp sống cõi trung giới càng trở nên ngắn hơn, và kiếp sống cõi thiên đàng càng dài hơn.  Đến khi con người phát triển tâm linh và trí tuệ cao, họ không bị trì hoãn ở cõi trung giới, mà chỉ đi xuyên qua nó; họ sẽ được vui hưởng một thời gian lưu trú dài và hạnh phúc ở những cảnh  thấp của cõi thượng giới. Tuy nhiên vào lúc này, tâm thức trong chân ngã được đánh thức ở mức  độ cao, và sự sống ý thức trên cõi thượng giới được chia ra làm hai giai đoạn, mà giai đoạn thứ nhì là giai đoạn ngắn nhất được trải qua ở những cảnh cao với nhân thể (causal body). Tiến trình mà chúng ta vừa diễn tả, sẽ được lặp lại: giai đoạn sống ở các cảnh thấp thu ngắn dần,  và giai đoạn sống ở các cảnh cao trở nên lâu dài và đầy đủ hơn, cho đến ngày tâm thức được  hợp nhất. Khi phần cao và phần thấp của cái ngã hợp nhất, không thể phân chia, con người  không còn có thể tự bao phủ trong đám mây tư tưởng của riêng họ, và họ có thể thấy xuyên qua  nó toàn thể cõi thiên đàng rộng lớn chung quanh. Họ sẽ nhận thấy còn có những mục đích thật  sự trong kiếp sống của họ, và đây là lần đầu tiên, họ bắt đầu sống thực sự. Thực ra, vào lúc đạt  tới những trình độ cao này, họ đã đặt chân trên đường đạo, và nắm vững những bước tiến bộ tương lai.

NHỮNG ĐỨC TÍNH CẦN CHO CUỘC SỐNG Ở CÕI THIÊN ĐÀNG

Sự sống ở cõi thượng giới thực tại hơn sự sống ở cõi trần; điều này rõ ràng hơn khi chúng ta  xem xét những điều kiện cần thiết để đạt đến trạng thái cao cả này. Nếu một người muốn sống  trên cõi thiên đàng sau khi lìa trần, lúc sống ở cõi trần họ phải phát triển những đặc tính tốt nhất  và cao quí nhất, đáng ao ước của giống dân chúng ta. Đặc tính cốt yếu để một nguyện vọng hay  một sức mạnh tư tưởng tồn tại nơi cõi thượng giới, là không ích kỷ.

Tình thương đối với gia đình hay bạn bè, cũng như lòng tôn sùng tín ngưỡng tôn giáo, có giá trị lớn đưa con người vào cõi thiên đàng. Tuy nhiên, đừng nên lầm lẫn mà cho rằng tất cả các loại  tình thương, hay tất cả lòng tôn sùng đều có vị trí trên cõi này sau khi con người từ trần. Vì mỗi  loại tình cảm đều có hai khía cạnh: ích kỷ hoặc vị tha, mà chỉ có loại tình cảm vị tha mới xứng  đáng được gọi là tình cảm thật sự.

Có loại tình thương nhắm đến đối tượng nào đó, không mong đợi được đáp lại, cũng không bao  giờ nghĩ đến cá nhân mình, mà chỉ nghĩ đến những gì mình có thể làm được cho người mà mình  thương. Một tình cảm như thế phát sinh sức mạnh tinh thần, và sức mạnh này chỉ có thể biểu  hiện trên cõi thượng giới. Nhưng còn có một loại tình cảm khác, đôi khi người ta gọi là tình yêu, nhưng nói cho đúng, đó là sự đam mê ích kỷ, ham muốn được yêu. Người ấy chỉ luôn nghĩ về những gì họ muốn nhận vào thay vì cho ra, thứ tình cảm này dễ đưa đến thói xấu đáng sợ là tánh  ganh tỵ. Đây là loại tình cảm không chứa bất cứ một mầm mống nào cho sự phát triển tinh thần, nó không bao giờ có đủ sức mạnh đưa con người vượt lên khỏi cõi trung giới. Tình cảm của vài lớp người sùng tín tôn giáo cũng giống như thế, tư tưởng của những người này  không nhắm vào sự vinh danh những bậc thần linh, mà chỉ nhắm vào sự được cứu rỗi cho linh  hồn đau khổ của họ. Điều đó khiến người ta phải nghĩ rằng những lớp người này chưa phát triển  tí nào để được xứng đáng với danh xưng linh hồn.

Mặt khác, trong tôn giáo có những người tín ngưỡng thực sự, không bao giờ nghĩ đến bản thân,  mà chỉ có tình thương và sự tri ân hướng về bậc Thần Linh hoặc vị Giáo Chủ; họ đầy nhiệt tâm  ước muốn làm việc cho Ngài hoặc nhân danh Ngài. Tình cảm như thế thường đưa đến một cuộc  sống lâu dài, có phẩm chất cao ở cõi thượng giới.

Dĩ nhiên, trong trường hợp này, dù vị Thần Linh hay vị Giáo Chủ nào đi nữa, những tín đồ của  đức Phật, của đức Krishna, đức Ormuzd, thánh Allah và đức Christ, tất cả đều được phần  thưởng phúc lạc trên cõi thiên đàng. Thời gian và phẩm chất của phần thưởng này tuỳ thuộc vào  cường độ và sự tinh khiết trong tình cảm của họ, mà không tùy thuộc chút nào vào “đấng” mà họ sùng bái. Mặc dù đấng Giáo Chủ mà họ tôn kính, chắc chắn ảnh hưởng đến khả năng tiếp nhận  giáo huấn của họ trong suốt cuộc sống ở cõi cao này.

Tuy nhiên, hầu hết lòng tôn sùng cũng như tình yêu của con người, không luôn luôn hoàn toàn  trong sạch, cũng không luôn luôn hoàn toàn ích kỷ. Thật ra, tình thương có thể thấp kém đến độ không có một tư tưởng hoặc động lực không ích kỷ nào xen vào được. Mặt khác, một tình cảm  hoàn toàn trong sạch và cao thượng, đôi khi cũng bị vẫn đục bởi một cảm giác ghen tỵ, hoặc bị thoáng qua bởi một tư tưởng ích kỷ. Trong tất cả mọi trường hợp, định luật công bình tuyệt  đối sẽ xét đoán không sai chạy. Ngay lúc có một tia sáng của tình cảm cao thượng lóe ra trong  tâm hồn của người kém phát triển, chắc chắn người ấy sẽ nhận được một phần thưởng ở cõi  thiên đàng, mặc dù không có điều gì khác trong kiếp sống trần gian giúp cho linh hồn được nâng  cao khỏi cõi trung giới. Như thế, tư tưởng thấp hèn đã làm lu mờ tia sáng thánh thiện của tình  yêu thực sự, sẽ đem đến cho họ cuộc sống ở cõi trung giới; điều này không ngăn cản chút nào  sự sống vinh diệu ở cõi thượng giới, do một ít mầm mống thiện mà con người đã gieo trồng được  trong những năm sống ở trần gian.

LÀM THẾ NÀO CON NGƯỜI ĐẠT ĐƯỢC SỰ SỐNG TRÊN CÕI THIÊN ĐÀNG LẦN ĐẦU TIÊN

Trong những giai đoạn đầu tiên của sự tiến hoá, có nhiều linh hồn trễ nải, không bao giờ đạt  được cõi thiên đàng một cách có ý thức, và có một số lớn linh hồn chỉ tiếp xúc tương đối sơ sài  với một vài cảnh thấp của cõi thượng giới. Dĩ nhiên, mỗi linh hồn phải hoà nhập với cái ngã thực  sự trên các cõi cao trước khi luân hồi; nhưng không có nghĩa là linh hồn có được kinh nghiệm  này một cách hữu thức. Chúng ta sẽ khai triển phần này của đề tài, khi khởi sự nghiên cứu cõi  “vô sắc tướng” (arupa). Có lẽ tốt hơn nếu chúng ta nghiên cứu từ thấp lên trên, bắt đầu từ những  vùng thấp nhất của cõi “sắc tướng” (rupa). Vậy thì, lúc này chúng ta hãy để qua một bên phần nói  về nhóm nhân loại mà sau khi chết, tâm thức của họ chỉ giới hạn ở cõi trung giới; và chúng ta hãy  khảo sát về trường hợp một người mới vượt qua được khỏi cõi trung giới, người lần đầu tiên có  được tâm thức thức tỉnh yếu ớt, thoáng qua ở cảnh thấp nhất của cõi thượng giới.

Hiển nhiên có những cách thức khác nhau để cho một linh hồn ở giai đoạn đầu của sự phát triển,  thực hiện bước tiến quan trọng này; nhưng mục đích của chúng ta trong lúc này cũng tạm đầy đủ với sự trình bày một câu chuyện ngắn, cảm động về một cuộc sống thực sự do các nghiên cứu  sinh chúng ta ghi nhận lại, khi họ khảo sát vấn đề này. Nhân vật này có một sức mạnh phát triển  lớn, đó là một cô thợ may nghèo, ở trong một xóm nhà tồi tệ, tiêu điều và bẩn thỉu nhất trong một ngõ hẻm hôi thúi ở cuối phía đông thành phố Luân Đôn, không đủ ánh sáng và không khí. Tự nhiên, người phụ nữ này có trình độ học vấn thấp, vì cuộc đời của cô bị trói buộc bởi công  việc cực nhọc, triền miên trong điều kiện thiếu thốn. Tuy nhiên cô có một tấm lòng tốt, nhân hậu,  tràn đầy tình thương và hảo tâm đối với mọi người. Căn nhà nhỏ của cô cũng nghèo nàn như  những căn nhà khác trong xóm, nhưng nó sạch sẽ và gọn gàng hơn các căn nhà khác. Khi trong  xóm có người bệnh cần giúp đỡ, vì không tiền nên cô thường dùng thì giờ của mình ra công săn  sóc cho họ trong khả năng của cô với lòng thiện cảm chân thành. Vì thế, các nữ công nhân nhà  máy ở chung quanh xem cô như một “vị thần hộ mạng”. Họ ngưỡng mộ cô như một thiên thần  cứu trợ và thương yêu, luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người gặp cảnh rắc rối hay bệnh hoạn.  Thường thường sau một ngày làm việc mệt nhọc gần như không ngừng nghỉ, cô thức khuya đến  nửa đêm, để thay phiên săn sóc một vài người trong số những người đau khổ, bệnh hoạn, mà lúc  nào cũng có trong một xóm bẩn thỉu của thành phố Luân Đôn. Trong nhiều trường hợp, lòng nhân  đạo không mệt mỏi của cô, đã làm thức tỉnh tâm hồn của những người biết ơn và thương mến  cô, đó là một thứ tình cảm cao thượng duy nhất mà họ có được trong suốt cuộc đời của họ. Tình trạng sống ở cái xóm ngõ hẹp này vẫn tồn tại như thế, người ta không lấy làm lạ khi có vài  người bệnh từ trần. Cô đã giúp đỡ họ nhiều hơn là cô nghĩ; chẳng những cô giúp cho họ tạm thời  trải qua những khó khăn, mà còn mang lại cho họ động lực quan trọng trên con đường tiến bộ tâm linh. Đó là những linh hồn chưa phát triển, thuộc lớp người chậm tiến hóa, chưa có một kiếp  tái sinh nào của họ được thúc đẩy bởi sức mạnh tâm linh, để có thể cho họ có được một đời  sống tri thức trên cõi thượng giới. Bây giờ lần đầu tiên, chẳng những một lý tưởng mà họ có thể cố gắng đạt đến hiện diện trước mắt họ, mà còn có một tình thương thực sự không ích kỷ được  đánh thức trong lòng họ do những hành động của cô. Chính cảm giác mạnh mẽ này đã nâng họ lên tiếp xúc nhiều hơn với chân ngã, vì thế sau thời gian lưu ngụ của họ ở cõi trung giới chấm  dứt, họ sẽ có được kinh nghiệm đầu tiên ở vùng thấp nhất của cõi thượng giới. Có lẽ đó chỉ là  một kinh nghiệm ngắn thuộc mức độ thấp, mới nhìn qua thấy không quan trọng. Nhưng thật ra  kinh nghiệm này rất quan trọng, vì một khi năng lực tinh thần vĩ đại của sự vị tha được đánh thức,  nó luôn có khuynh hướng tái lập trở lại. Mặc dù dòng năng lực đầu tiên này chỉ ít oi, nhưng sẽ tạo  ra trong linh hồn một vài phẩm chất mà chắc chắn sẽ được tái lập lại vào kiếp sau. Như thế lòng từ thiện đáng yêu của cô thợ may nghèo đã đem đến cho một số linh hồn kém tiến  hóa sự mở đầu của đời sống tâm linh có ý thức. Sau những kiếp luân hồi kế tiếp nhau, ý thức  này sẽ không ngừng lớn mạnh hơn, và trong tương lai còn tác động nhiều hơn cho các kiếp sống  ở cõi trần. Giai thoại này có thể giải thích sự quan trọng của yếu tố con người trong việc làm từ thiện của nhiều tôn giáo khác nhau, đó là sự nối kết trực tiếp giữa người cho và người nhận.

CẢNH THỨ BẢY, CẢNH THẤP NHẤT CỦA CÕI THIÊN ĐÀNG

Cô thợ may nghèo trong câu chuyện kể trên, đã mang những người được cô săn sóc lên đến  vùng thấp nhất của cõi thiên đàng, có đặc tính chính là tình thương đối với gia đình hoặc bạn bè,  dĩ nhiên tình thương này không ích kỷ nhưng có một chút hẹp hòi. Tuy nhiên, nơi đây chúng ta nên cẩn thận để tránh sự hiểu lầm. Khi chúng ta nói, tình cảm gia đình đưa một người đến cảnh  thứ bảy của cõi thượng giới, và lòng tôn sùng tín ngưỡng tôn giáo đưa đến cảnh thứ sáu; tự nhiên người ta thường lầm tưởng rằng nếu một người phát triển cao độ cả hai đặc tính này, thời  gian lưu trú của họ ở cõi thiên đàng sẽ được chia ra hai phần. Trước tiên, họ trải qua một thời  gian dài hạnh phúc ở cảnh thứ bảy do tình thương không ích kỷ trong gia đình và bạn bè, kế đến  họ lên một nấc cao hơn và trải qua thời gian ở cảnh thứ sáu, cho đến khi cạn hết lực tinh thần  được tạo nên bởi những nguyện vọng tín ngưỡng tôn giáo.

Thật ra, điều này không xảy ra như thế; giả sử một người có tâm thức tỉnh thức ở cảnh thứ sáu,  ở đó họ nhận thấy chung quanh họ có nhiều nhân vật mà họ thương mến, trong hình thức cao cả nhất của lòng tôn sùng. Rất có lý khi chúng ta nghĩ rằng một người có lòng tín ngưỡng tôn giáo,  cùng lúc cũng có tình thương đối với gia đình, sẽ xứng đáng được phát triển cao hơn và rộng rãi  hơn, so với một người mà trí óc chỉ được ảnh hưởng bởi một chiều hướng mà thôi; nguyên tắc  này không thay đổi từ thấp lên cao. Cõi cao hơn có đặc tính của riêng nó và bao gồm luôn những  đặc tính của cõi thấp hơn nó; và như thế, hầu hết những dân cư ở cõi trên, có đầy đủ những đức  tính hơn những dân cư ở cõi thấp.

Khi nói tình thương đối với gia đình là đặc tính của cảnh thứ bảy, không có nghĩa đặc tính tình  yêu chỉ giới hạn ở cảnh này; mà nên hiểu rằng, nếu muốn sau khi từ trần đạt đến cảnh này, con  người phải có tình thương là đặc tính cao quí nhất của họ, và chỉ có đặc tính này mà thôi là đủ để họ có được sự sống ở cảnh này của cõi thiên đàng. Nhưng loại tình thương rộng lớn, cao quí hơn ở cảnh này dĩ nhiên cũng có thể được tìm thấy ở những cảnh cao hơn. Những vị quan sát cõi thượng giới nhận thấy có một lớp người tiêu biểu trong số những cư dân ở cảnh thứ bảy. Một thí dụ trong số lớp người này là một người buôn bán ở một cửa hàng nhỏ, trí  thông minh chưa phát triển, cũng chưa có tín ngưỡng rõ rệt, đó chỉ là một người buôn bán nhỏ chân thật, đàng hoàng. Anh ta đi nhà thờ đều đặn vào các ngày Chúa Nhật do thói quen và cũng  là một việc làm đúng đắn. Nhưng đối với anh ta, tôn giáo chỉ là một đám mây mờ, mà thật sự anh  không hiểu gì cả; đối với anh, tôn giáo không có liên quan gì đến công việc hàng ngày, cũng  không ảnh hưởng đến các quyết định để giải quyết những vấn đề. Vì vậy, anh không có lòng tín  ngưỡng thâm sâu, để có thể được nâng lên đến cảnh trên kế tiếp. Nhưng tình thương của anh  đối với vợ con có nhiều đặc tính không ích kỷ. Hình ảnh những người thân trong gia đình luôn ở trong tâm trí anh, anh làm việc từ sáng đến chiều trong một cửa hàng nhỏ, anh đã lo nghĩ cho  những người thân hơn là lo cho chính bản thân mình. Sau một thời gian lưu ngụ trên cõi trung  giới, kế đó anh được tự do rời khỏi cảm dục thể đang trong tiến trình phân hủy. Được nâng lên  cảnh thấp nhất của cõi thiên đàng, anh thấy tất cả những người thân thương đoàn tụ chung  quanh anh.

Trình độ phát triển trí tuệ và tâm linh của anh cũng không hơn gì khi anh sống ở cõi trần, vì sự chết không đem đến một sự thay đổi đột ngột những đặc tính này. Hoàn cảnh chung quanh ở cõi  này, nơi mà anh và gia đình xum họp, không phải thuộc loại hoàn toàn thanh cao, vì họ chỉ thể hiện lý tưởng của loại hạnh phúc không tùy thuộc vật chất mà anh mơ ước trong suốt cuộc sống  ở cõi trần; tuy nhiên, anh cảm thấy hạnh phúc sâu đậm ngang tầm tay. Từ khi anh luôn nghĩ đến  người thân, thay vì chỉ nghĩ đến chính anh, khuynh hướng vị tha phát triển nhiều hơn, khuynh  hướng này sẽ tạo nên những đặc tính thường trực của linh hồn, và sẽ tái xuất hiện trong tất cả những kiếp sống tương lai nơi cõi trần.

Sau đây là trường hợp tượng trưng khác: Một người đã chết bỏ lại đứa con gái duy nhất còn quá  nhỏ; ở cõi thiên đàng, ông luôn được gần gũi với con, và đứa con luôn ở trong tình trạng tốt lành;  ông không ngừng phác hoạ tương lai đầy hứa hẹn cho nó. Trường hợp một thiếu nữ trẻ khác,

luôn luôn suy tưởng đến sự hoàn hảo của cha cô, và chuẩn bị dành cho ông một sự bất ngờ lý  thú mới. Trường hợp khác nữa, là một phụ nữ Hy Lạp đang có một thời gian hạnh phúc tuyệt  diệu bên cạnh ba đứa con, trong đó có một đứa con trai có hình thể rất đẹp, bà vui sướng tưởng  tượng đến sự vinh quang của con bà trong những trận thi đấu thế vận hội.

Trong vài thế kỷ gần đây, có một sự việc nổi bật là người ta nhận thấy có nhiều người La Mã,  người ở thành Carthage và người Anh ở cảnh thứ bảy này. Do sự kiện những người thuộc các  quốc gia này, đều có đặc tính chính là lòng vị tha, thể hiện bằng tình cảm gia đình. Trong khi ở cảnh này, có tương đối ít những người Ấn Giáo và tín đồ Phật Giáo, vì tín ngưỡng tôn giáo của  họ thấm nhuần trong đời sống hàng ngày, do đó sau khi từ trần, họ được đưa lên thẳng cảnh cao  hơn.

Dĩ nhiên có sự khác biệt gần như vô tận trong số những trường hợp được quan sát. Trình độ tiến  bộ khác nhau của họ được phân biệt bởi những cấp độ sáng chói khác nhau, trong khi phẩm chất  của sự phát triển được biểu lộ bằng các màu sắc khác nhau. Một số người đang yêu thương sâu  đậm, sau khi từ trần tâm trí họ luôn nghĩ đến người mà họ thương yêu, đến nỗi không còn nghĩ gì  đến những người khác. Trong số những trường hợp này có một người đàn ông tên Malay, còn ở giai đoạn tiến hóa thấp, ông này có chút ít kinh nghiệm về sự sống cõi thiên đàng do sự liên kết  với đứa con gái mà ông rất thương mến.

Trong tất cả những trường hợp vừa kể, nhờ có tình thương không ích kỷ đã đem đến cho họ sự sống trên cõi thiên đàng. Thật vậy, ngoại trừ thứ tình cảm này, trong cuộc sống thế gian của họ không có hoạt động nào khác có thể biểu hiện ở cõi thiên đàng. Đa số các trường hợp được  quan sát ở cảnh này, hình ảnh của những người được họ yêu thương không được hoàn hảo,  theo đó, chân nhân hay linh hồn của những người được họ yêu thương chỉ có thể biểu hiện một  cách bất toàn qua những hình ảnh ấy; nhưng dù sao sự biểu hiện ấy cũng đầy đủ hơn và đem lại  sự hài lòng hơn lúc họ sống với nhau ở cõi trần. Khi ở cõi trần, chúng ta có cái nhìn rất khiếm  khuyết đối với những người bạn, và chỉ biết họ qua những khía cạnh đồng tính chất đối với chúng  ta; thật sự chúng ta không nhận thấy những khía cạnh khác trong bản chất của họ. Sự liên hệ và  hiểu biết những người thân có ý nghĩa rất nhiều đối với chúng ta ở cõi trần, và thường đó là  những vấn đề lớn nhất trong cuộc sống. Tuy nhiên, sự liên hệ và hiểu biết lẫn nhau này luôn có  nhiều khiếm khuyết. Ngay trường hợp chúng ta tưởng như đã hiểu tường tận một người, cả thể xác lẫn linh hồn, thật ra chúng ta chỉ có thể biết ở họ một phần được biểu lộ nơi các cõi thấp  trong lần đầu thai này, còn lại phần thâm sâu trong chân ngã họ, chúng ta hoàn toàn không hiểu  một chút gì về họ. Thật vậy, nếu chúng ta sử dụng được nhãn quan trực tiếp và hoàn hảo của thị giác cõi thượng giới, lần đầu tiên chúng ta sẽ thấy trọn vẹn người bạn mà chúng ta gặp lại sau  khi người ấy từ trần; có lẽ chúng ta sẽ không nhận ra người ấy, vì chắc chắn họ không giống  người bạn thân mà trước kia chúng ta lầm tưởng đã hiểu rõ.

Cần phải hiểu rằng, một tình thương nhiệt thành, và chỉ cần tình thương này thôi cũng đủ đem  một người vào cuộc sống thiên đàng của người kia; đó là một mãnh lực rất mạnh của cõi này.  Mãnh lực này hướng đến tận linh hồn của người thương và kích động sự đáp ứng lại. Cấp độ linh động, tức năng lượng sự sống của sự đáp ứng này tự nhiên tuỳ thuộc vào trình độ phát triển  của linh hồn người được thương yêu, nhưng trong mọi trường hợp sự ứng đáp này là thực sự hoàn toàn.

Dĩ nhiên, linh hồn hoặc chân ngã chỉ có thể được đạt đến hoàn toàn đầy đủ trên cảnh riêng của  nó, một cảnh trong phần vô sắc tướng của cõi thượng giới. Nhưng ít nhất ở mỗi giai đoạn của cõi  thiên đàng, chúng ta tiến đến gần nó hơn khi chúng ta ở cõi trần. Như thế, trong những điều kiện  thích hợp, từ cõi thượng giới chúng ta có thể biết rõ người bạn hơn khi chúng ta ở cõi trần. Ngay khi không có điều kiện thích hợp, ở cõi thượng giới chúng ta cũng có mức độ gần với thực tại  hơn ở cõi trần.

Về phương diện này, cần phải có sự phát triển đến một trình độ nào đó của cả hai người liên hệ.  Nếu người đang sống trên cõi thiên đàng có tình thương sâu đậm và có trình độ phát triển tâm  linh khá cao, sẽ tạo ra được một hình tư tưởng hoàn toàn và rõ ràng của người bạn mà họ đã  biết, để xuyên qua hình ảnh này linh hồn người bạn có thể biểu lộ khá đầy đủ. Muốn dùng cơ hội  này một cách hoàn hảo, linh hồn người bạn cũng cần phải đạt đến một trình độ phát triển khá  cao.

Như chúng ta thấy, có hai lý do có thể làm cho sự biểu lộ không được hoàn hảo. Hình ảnh được  tạo ra bởi người đã từ trần có thể quá lu mờ, và không có hiệu quả để cho phép người bạn sử dụng, mặc dù người bạn đã có trình độ tiến hoá khá cao. Trường hợp thứ nhì, hình ảnh được tạo ra hoàn hảo, nhưng trình độ phát triển của người bạn chưa đủ để có thể sử dụng nó. Nhưng trong bất cứ trường hợp nào, linh hồn của người bạn đáp lại do tình cảm quyến luyến của  người ở cõi thượng giới; dù ở vào giai đoạn phát triển nào, nó cũng lập tức đáp ứng lại bằng  cách tiến đến thấm nhập vào hình ảnh đã được tạo ra. Con người thật có thể biểu lộ nhiều hay ít  qua hình ảnh đó, tùy thuộc hai yếu tố như đã được đề cập ở trên; trước hết là phẩm chất hình  ảnh được tạo ra, kế đến là linh hồn có thể biểu lộ nhiều hay ít. Dù hình ảnh được tạo ra có yếu đi  nữa, nhưng trường hợp này là ở cõi trí, cho nên chân ngã vẫn dễ đạt tới hơn đối với cõi trần,  thấp hơn trọn hai cõi.

Nếu người bạn vẫn còn sống ở cõi trần, tự nhiên người này hoàn toàn không biết gì về chân ngã  thật sự của họ lại biểu lộ thêm trên cõi cao. Có điều chắc chắn là sự biểu lộ ấy trung thực hơn và  chứa đựng gần đúng cái ngã thật, hơn là cái ngã thấp thỏi mà hầu hết mọi người nhận thấy ở cõi  trần.

Có điều lý thú là một người có thể cùng lúc đi vào sự sống thiên đàng của vài người bạn đã từ trần, người ấy có thể tự biểu lộ đồng thời trong tất cả các hình dạng khác nhau này, trong khi  người ấy cũng chăm sóc thể xác ở cõi trần. Ý niệm này cũng không có gì lạ đối với người nào đã  hiểu rõ sự liên hệ giữa các cõi khác nhau. Người này có thể dễ dàng tự biểu lộ cùng một lúc  trong vài hình dạng ở cõi trời; giống như chúng ta đồng thời nhận thức được nhiều điểm tiếp xúc  với nhiều đồ vật lên những phần khác nhau trong cơ thể chúng ta. Sự liên hệ của một cõi này với  một cõi khác cũng giống với sự liên hệ của một bề đo này với một bề đo kia; không có một số những đơn vị nào thuộc một bề đo thấp có thể tương đương với một đơn vị của bề đo cao hơn;  giống như thế, không có một số những biểu lộ này có thể làm hết đi năng lực đáp ứng của chân  ngã ở trên. Trái lại, những sự biểu lộ như thế cho họ thêm một cơ hội đáng kể để phát triển ở cõi  thượng giới. Theo định luật công bằng của trời đất, cơ hội này là kết quả trực tiếp và là một phần  thưởng dành cho những phẩm hạnh và hành động ban phát tình thương.

Tất cả những điều này cho thấy rõ rằng khi con người tiến hóa, những cơ hội của họ trong mọi  chiều hướng trở nên to lớn hơn. Khi họ phát triển nhiều, họ thu hút tình thương và sự tôn kính  của nhiều người, và vì thế có nhiều hình tư tưởng vững chắc trên cõi trí tùy ý họ sử dụng. Đồng  thời, năng lực biểu lộ cũng như sự cảm nhận của họ xuyên qua mỗi hình ảnh này gia tăng rất  nhanh theo sự tiến bộ của họ.

Các quan sát viên nhận thấy có một trường hợp đơn giản có thể dùng làm thí dụ điển hình. Một  người mẹ đã từ trần khoảng 20 năm trước, để lại hai đứa con trai mà bà rất thương yêu. Tự nhiên hình ảnh của chúng nổi bật nhất trong cuộc sống của bà trên cõi thiên đàng, và cũng rất tự nhiên bà nghĩ về chúng còn ở tuổi 15, 16, lúc bà rời xa chúng. Tình thương mà bà không ngừng  ban rải lên những hình tư tưởng này, thực sự tác động như một sức mạnh hỗ trợ tuôn xuống cõi vật chất cho hai người đàn ông đã trưởng thành. Nhưng ảnh hưởng đối với hai đứa con bà rất  khác nhau, điều này không phải vì tình thương của người mẹ đối với đứa này nhiều hơn đứa kia,  mà vì có một sự khác biệt to lớn về sinh lực của chính những hình ảnh này. Đối với người mẹ,  không có sự khác biệt, bà thấy hình ảnh hai đứa con đồng đều nhau và chúng đều giống như sự kỳ vọng của bà. Nhưng các quan sát viên nhận thấy rõ ràng một trong hai hình ảnh này tràn đầy  sinh lực hơn hình ảnh kia. Trong việc truy tìm nguyên nhân của hiện tượng đáng chú ý này, họ đã  khám phá ra rằng một trong hai người con này đã lớn lên và trở thành một thương gia, không có  tính xấu ác nào đặc biệt và cũng không có sự tiến hoá nào về tâm linh. Trong khi người em có  nguyện vọng cao thượng, sống một đời sống tinh luyện và có trí thức. Cuộc sống tinh thần của  người em làm tâm thức phát triển trong linh hồn nhiều hơn người anh; do đó chân ngã của người  em có thể làm linh hoạt đầy đủ hơn hình ảnh lúc còn trẻ do người mẹ tạo ra trong cuộc sống  thiên đàng của bà, và hình ảnh này càng nhận được nhiều sinh lực từ linh hồn, nó càng sống  động và sáng chói hơn.

Khảo sát thêm, người ta biết được có nhiều trường hợp tương tự như thế, điều này cho thấy rõ  rằng linh hồn càng tiến hóa về phương diện tâm linh, càng biểu lộ đầy đủ hơn trong hình ảnh  được tạo ra do tình thương yêu của người bạn. Do biểu lộ đầy đủ hơn, người ấy có thể nhận  được nhiều lợi ích hơn từ năng lực sống động của tình thương người bạn qua những hình tư  tưởng này. Khi linh hồn phát triển thêm, những hình ảnh này đại diện đầy đủ hơn cho người ấy;  đến lúc người ấy tiến đến cấp độ Chân Sư, người ấy sẽ sử dụng những hình tư tưởng một cách  có ý thức, như là một phương tiện để giúp đỡ và dạy dỗ các đệ tử.

Chỉ theo những đường lối này mới có thể có sự liên lạc hữu thức giữa những người vẫn còn bị giam cầm trong xác thân vật chất với những người đã bước qua cõi thượng giới. Như đã nói, một  linh hồn có thể sáng chói rực rỡ xuyên qua hình ảnh của nó trong cuộc sống của một người bạn  ở cõi thiên đàng. Trong sự biểu lộ của linh hồn xuyên qua xác thân ở cõi trần, nó có thể hoàn  toàn không ý thức gì về những sự kiện ấy, vì thế nó tự nghĩ rằng không thể nào liên lạc được với  người bạn đã từ trần. Nếu trái lại, tâm thức của linh hồn đã phát triển đến trình độ hợp nhất, và  có thể sử dụng trọn vẹn những năng lực khi vẫn còn ở trong xác thân vật chất, nó có thể nhận  thấy rằng trong cuộc sống buồn thảm ở cõi trần, nó vẫn có thể tiếp xúc mặt đối mặt với người  bạn ngày xưa, sự chết không làm mất đi người nó thương yêu, mà chỉ đem đến cho người bạn  một sự sống rộng lớn hơn, và sự sống này vẫn luôn ở quanh chúng ta.

Hình dáng của người bạn trông giống như lúc họ còn ở cõi trần, nhưng có phần sáng chói kỳ diệu. Hình dạng của thể trí cũng như thể vía là sự mô phỏng hình dạng của xác thân vật chất;  bên ngoài là cái vỏ hình bầu dục có hình dạng tùy theo nhân thể (causal body); do đó nó trông  giống như một hình thể làm bằng một lớp sương mù đậm đặc, bao quanh bởi một lớp sương mù  loãng hơn. Trong suốt cuộc sống ở cõi thiên đàng, phàm ngã được duy trì phân biệt, cho đến khi  tâm thức hoàn toàn rút vào nhân thể thì cảm giác về phàm ngã được hoà tan trong chân ngã. Lúc  ấy, lần đầu tiên kể từ khi luân hồi, con người nhận ra mình chính là chân ngã thực sự và tương  đối trường tồn.

Đôi khi có người đặt câu hỏi: trên cõi thượng giới người ta có ý thức về thời gian không? Có sự luân phiên ban đêm ngủ và ban ngày thức không? Ở cõi thiên đàng chỉ có một lần thức dậy, đó là  sự khởi đầu của một cảm giác phúc lạc tuyệt vời, khi con người bắt đầu cuộc sống nơi cõi đó.  Cũng chỉ có một lần ngủ duy nhất là lúc con người từ từ đắm chìm vào trạng thái hạnh phúc vô  thức, khi thời gian dài của cuộc sống ở cõi thiên đàng chấm dứt. Như từ đầu chúng ta đã diễn tả,  chân phúc ở cõi thiên đàng nhiều hơn gấp trăm lần hạnh phúc của tổng số những giờ hạnh phúc  nhất trong kiếp sống ở cõi trần. Đang ở cõi vật chất, chúng ta khó có thể diễn đạt một cách hoàn hảo về ý niệm này. Thực sự, có vô số loại hạnh phúc khác nhau ở cõi thiên đàng, nhưng ở cõi  này không có vấn đề thức hay ngủ.

Cuối cùng, khi thể trí tách rời khỏi thể vía, thường xảy ra một giai đoạn vô thức hoàn toàn; tùy  theo trường hợp, thời gian vô thức thay đổi rất nhiều; giai đoạn này cũng tương đồng với giai  đoạn theo sau cái chết của thể xác. Sự hoạt động của tâm thức cõi trí được đánh thức khi chấm  dứt giai đoạn vô thức, giống như sau giấc ngủ người ta tỉnh thức trở lại. Buổi sáng, lúc mới thức  dậy, đôi khi người ta cảm thấy dễ chịu, thoải mái, trong giai đoạn đó con người có cảm giác thích  thú, mặc dù cái trí chưa hoạt động và chưa kiểm soát được thể xác. Khi thức tỉnh ở cõi thiên  đàng, đầu tiên con người cũng trải qua một giai đoạn dài hay ngắn của cảm giác phúc lạc mạnh  mẽ và tăng dần, trước khi tâm thức hoạt động hoàn toàn ở cõi này. Cảm giác vui thích đầu tiên  này thấm nhuần vào toàn thể tâm thức, nhưng khi họ từ từ thức tỉnh, họ nhận thấy mình đang  sống trong một thế giới mà những người chung quanh đều có đặc tính lý tưởng giống như của  chính người ấy, và những đặc tính này thích hợp đối với cảnh nào của cõi thượng giới mà họ vừa  đến trú ngụ.

CẢNH THỨ SÁU, VÙNG THỨ NHÌ CỦA CÕI THIÊN ĐÀNG

Có thể nói, đặc tính chính của vùng này là tín ngưỡng, sự tôn sùng và nhân cách hóa những vị thần linh trong tôn giáo. Điều khác biệt giữa sự sùng kính này với tín ngưỡng tôn giáo của những  người ở cảnh thứ nhì cõi trung giới là: sự sùng kính ở cảnh thứ sáu của cõi thượng giới không có  bất cứ vết tích nào về tính ích kỷ (con người cảm thấy không còn bận tâm đến kết quả hay sự ban thưởng nữa), trong khi ở cảnh thứ nhì của cõi trung giới[5], lòng tôn sùng được khơi dậy do  sự hy vọng hay ham muốn được vài lợi ích cá nhân. Như vậy ở cảnh thứ nhì cõi trung giới, lòng  tin về tôn giáo thường chứa đựng yếu tố tính toán ích kỷ; trong khi lòng tôn sùng hoàn toàn không có dấu vết xấu xa ích kỷ, sẽ nâng con người lên cảnh thứ sáu cõi thượng giới. Mặt khác, sự sùng bái trong giai đoạn này phần lớn hướng về một đối tượng cao cả được nhân  cách hóa, phải được phân biệt cẩn thận với những hình thức sùng kính còn cao hơn nữa, trong  đó người sùng kính hoàn thành vài công việc đã định nhân danh vị cao cả. Khi xét vài thí dụ về những trường hợp được quan sát trên cảnh này, sẽ cho thấy rõ ràng hơn là chỉ diễn tả suông. Nhiều người có những hoạt động tinh thần ở cảnh này thuộc về các tôn giáo Đông phương; ít  nhất những người này có đặc tính tôn sùng tương đối thuần túy, nhưng không qua luận lý và trí  khôn. Có những người tôn sùng thần Vishnu (đấng Bảo Tồn) như là hoá thân của đức Krishna  hoặc dưới một hình thức nào khác; cũng có một số môn đồ thờ thần Shiva (đấng Hủy Diệt). Mỗi  người được bao phủ bằng một lớp vỏ tư tưởng riêng của họ, chỉ với vị thần linh của riêng họ,  lãng quên phần nhân loại còn lại, ngoại trừ những người thân mà họ thương yêu ở cõi trần. Thí  dụ, người ta thấy một tín đồ thờ thần Vishnu, hoàn toàn bị thu hút vào sự sùng kính ngây ngất  hình ảnh vị thần này, mà người ấy đã nguyện hiến dâng trọn cuộc đời.

Tính chất đặc biệt ở cõi này được tìm thấy trong số những người phụ nữ, họ chiếm đa số trong  những cư dân ở đây. Có một phụ nữ Ấn Giáo, đối với bà, người chồng trở thành một vị thần, bà  cũng tưởng tượng đức Krishna còn trẻ, đang vui đùa với các con bà; những người con của bà  hoàn toàn thực và nhân tính, còn bé Krishna được xuất hiện sống động trong hình thể bằng gỗ màu xanh dương. Đồng thời trong cuộc sống thiên đàng của bà, đức Krishna cũng xuất hiện dưới  một hình thể khác, một thiếu niên trẻ, mảnh mai đang thổi sáo; nhưng bà không lẫn lộn hoặc bị xáo trộn bởi sự biểu lộ song đôi này. Một người đàn bà khác sùng bái thần Shiva, bà có ý nghĩ  lẫn lộn giữa vị thần này với chồng bà, bà xem người chồng như là sự biểu lộ của vị thần đó, và người này thường biến đổi thành người kia. Cũng có một số tín đồ Phật Giáo ở cảnh này, nhưng  họ chỉ là những người không hiểu biết nhiều về giáo lý, họ xem đức Phật như một đối tượng  đáng thờ phụng hơn là một vị đại Huấn Sư.

Những tín đồ Thiên Chúa Giáo cũng chiếm một số nhiều trong những cư dân cõi này. Lòng mộ đạo của họ không có đặc tính trí thức, thí dụ như một người nông dân Cơ Đốc Giáo không có học  thức và một “người lính” chân thành trung hậu của “đội quân cứu rỗi”, cả hai đều giống như đã  mô tả ở trên. Những người này cũng được bao phủ trong sự chiêm nghiệm về đấng Christ hay  đức Mẹ theo ý niệm riêng của họ. Một người nông dân Ái Nhĩ Lan say mê trong sự sùng bái thâm  sâu đức Mẹ Maria đồng trinh; anh ta tưởng ra hình ảnh đức Mẹ đang đứng trên mặt trăng, dang  hai tay ra và nói chuyện với anh ta. Một tu sĩ thời trung cổ đang chiêm nghiệm ngây ngất về cảnh  tượng Chúa bị đóng đinh trên thánh giá, cường độ lòng trắc ẩn và tình thương của ông này, khiến  cho ông nhìn máu chảy ra từ những vết thương bị đóng đinh của đức Chist, xuất hiện trong thể trí  của chính ông.

Một người khác, dường như đã quên câu chuyện buồn thảm về việc đóng đinh trên thập tự giá,  ông chỉ nghĩ về đấng Christ vinh quang đang ngự trên ngai của Ngài, trước mặt Ngài là một biển  cả trong suốt như thủy tinh, chung quanh có vô số người tôn sùng, trong số đó có ông và vợ cùng  gia đình. Mặc dù ông có tình thương sâu đậm dành cho gia đình, nhưng sự sùng kính đấng  Christ vẫn chiếm vị trí đầu tiên trong tư tưởng của ông. Ý niệm của ông đối với thần thánh, thiên  về vật chất đến nỗi hình ảnh của Ngài liên tục thay đổi giữa hình thể của một người và hình thể của con cừu mang cây cờ, là biểu tượng chúng ta thường thấy ở những cửa sổ của nhà thờ. Một trường hợp đáng chú ý khác, có một nữ tu sĩ người Tây Ban Nha đã chết vào tuổi 19 hoặc  20. Ở thiên đàng cô nhớ lại thời mà đức Christ còn sống trên cõi trần, và tưởng tượng cô đang  tháp tùng Ngài qua những biến cố xảy ra liên tiếp được kể lại trong phúc âm; sau khi Ngài bị đóng đinh trên thập tự giá, cô săn sóc cho mẹ Ngài, đức Mẹ đồng trinh Maria. Những hình ảnh  mà cô nghĩ ra về cảnh vật và trang phục của xứ Palestine hoàn toàn không chính xác, có lẽ đó  cũng là điều bình thường. Trong tâm của cô, Đấng cứu thế và các đệ tử của Ngài lại mặc y phục  những nông dân Tây Ban Nha; và vùng phụ cận Jérusalem chỉ có núi cao, với những cánh đồng  nho mọc đầy trên sườn núi, và những cây ô liu được phủ một lớp rong rêu màu xám đặc biệt của  xứ Tây Ban Nha. Sau cùng, cô tự nghĩ là cô tử vì đạo và được lên cõi thiên đàng, cuộc sống này  cứ lặp đi lặp lại trong niềm vui thích của cô.

Một thí dụ nhỏ, kỳ lạ về cuộc sống thiên đàng của một đứa trẻ, có thể kết thúc phần liệt kê những  câu chuyện về cảnh thứ sáu của cõi thượng giới. Em bé chết vào lúc 7 tuổi, ở cõi thiên đàng em  bận rộn đóng vai trò trong những câu chuyện về tôn giáo mà chị vú em người Ái Nhĩ Lan đã kể lại  cho em nghe. Em thích nhất là tự nghĩ mình đang chơi đùa với cậu bé Jésus, và giúp cậu này  nắn các con chim sẻ bằng đất sét, và theo huyền thoại cậu bé Jésus này đã làm chúng trở nên  sinh động và bay lên.

Người ta thấy rằng, sự tôn sùng mù quáng và phi lý mà chúng ta vừa nói, không bao giờ nâng  những người sùng đạo lên những trình độ tâm linh cao. Nên nhớ, trong tất cả mọi trường hợp, họ hoàn toàn hạnh phúc và thoả mãn trọn vẹn, vì những gì mà họ nhận được luôn luôn có giá trị cao  nhất đối với khả năng mà họ có thể mơ ước. Điều này cũng không có lợi nhiều cho tương lai của  họ, vì chỉ với sự tôn sùng mà thôi sẽ không bao giờ giúp cho cái trí phát triển; tuy nhiên nó sẽ làm  tăng thêm khả năng cho con người tiếp nhận một hình thức tôn sùng cao hơn; và trong hầu hết  trường hợp sẽ đưa đến một đời sống thanh cao. Khi một người đã trải qua một kiếp sống, và vui  hưởng cõi thiên đàng như chúng ta vừa diễn tả, mặc dù họ không tiến nhanh trên con đường  phát triển tâm linh; ít ra họ cũng tránh được nhiều sự nguy hiểm. Trong kiếp sau, họ ít có nguy cơ bị rơi vào những tội lỗi nặng nề, hoặc bị kéo ra khỏi lối sống nhiệt tâm sùng đạo; họ cũng ít có  nguy cơ vùi sâu vào lối sống trần gian đầy ham muốn, tham lam, trụy lạc. Như thế việc nghiên  cứu về cảnh này, cho chúng ta thấy sự cần thiết nghe theo lời khuyên của thánh Peter: “Hãy  thêm đức hạnh vào lòng tin, và thêm sự hiểu biết vào đức hạnh.”

Những kết quả lạ lùng như thế phát sinh từ những hình thức thô sơ của tín ngưỡng; chủ nghĩa  duy vật còn thô sơ hơn, đã gây nhiều đau khổ khắp Âu Châu cách nay không lâu. Trong quyển  “Chìa Khoá Thông Thiên Học”, bà Blavatsky có nói, trong vài trường hợp người theo duy vật chủ nghĩa không được sống có ý thức trong cõi thiên đàng, vì khi còn sống họ không tin có sự tồn tại  sau khi chết. Tuy nhiên, có lẽ vị sáng lập viên vĩ đại của chúng ta (bà Blavatsky) đã sử dụng từ ngữ “người duy vật” theo một ý nghĩa rất hạn chế, khác hơn ý nghĩa thông thường; vì cũng trong  tác phẩm này bà đã quả quyết, đối với những người duy vật, sau khi chết họ không thể có bất cứ sự sống ý thức nào. Trong khi những người làm việc ban đêm trên cõi trung giới đều biết và gặp nhiều người được gọi chung là những người duy vật ở cõi đó, và chắc chắn là họ có tri thức. Một thí dụ khác, một người duy vật rất nổi tiếng là bạn thân của một trong các hội viên chúng ta,  cách nay không lâu được thấy ở trên cảnh cao nhất của cõi trung giới, chung quanh anh ta toàn  là sách vở, anh ta tiếp tục nghiên cứu, gần giống như lúc còn ở cõi trần. Khi được hỏi, anh ta  phải nhận rằng những lý thuyết mà anh ta đã theo đuổi khi còn ở cõi trần đã bị bài bác bởi những  sự kiện và luận lý không thể chống lại được. Nhưng khuynh hướng bất khả tri luận của người duy  vật vẫn còn mạnh, làm cho họ không chấp nhận sự hiện tồn của cõi cao hơn cõi họ đang ở. Chắc  rằng với tính chất như thế, người này chỉ có thể đạt tới sự chín chắn đầy đủ trên cõi trí. Dù họ hoàn toàn không tin có một sự sống nào khác sau khi chết, cũng không ngăn cản những kinh  nghiệm cõi trung giới của họ, do đó có thể những năng lực cao hơn trong người họ về sau sẽ thúc đẩy họ vào cõi thượng giới.

Chắc chắn do sự vô tín ngưỡng mà người duy vật này bị mất mát rất nhiều. Nếu họ có thể hiểu  được cái đẹp của lý tưởng tôn giáo, năng lực mạnh mẽ của sự tôn sùng sẽ được khơi dậy, và họ đã gặt hái nhiều kết quả; tất cả những điều đó đáng lẽ thuộc về người ấy, nay đã bị mất đi.  Những người này có tình cảm gia đình thâm sâu không ích kỷ, điều này cũng tạo ra nhiều năng  lực và đưa đến kết quả ở nơi nào đó trên cõi thượng giới. Sự thiếu sót một loại năng lực, không  thể ngăn cản tác động của một loại năng lực khác.

Một trường hợp khác vừa được quan sát mới đây về một người duy vật sau khi chết, thức tỉnh  trên cõi trung giới, ông ta cho rằng mình vẫn còn sống, và đang trải qua một giấc mơ không thích  thú. Điều may mắn cho ông ta trong nhóm người cứu trợ làm việc ở cõi trung giới, có con trai  người bạn cũ của ông ta, nhận trách nhiệm tìm ông ta để giúp đỡ. Đầu tiên, người duy vật nghĩ  rằng anh thanh niên này chỉ là một hình ảnh trong giấc mơ; nhưng sau khi nhận thông điệp của  người bạn cũ, đề cập về những vấn đề xảy ra trước khi cậu trẻ tuổi này được sinh ra, ông ta mới  tin sự thực là ông đang sống ở một cõi khác; sau đó ông rất hăng hái ham muốn tìm hiểu những  sự kiện về cõi này. Trong điều kiện đó, những điều chỉ dẫn cho ông ta rất có hiệu quả, và sẽ làm  thay đổi lớn lao chẳng những sự sống trên cõi thượng giới đang chờ ông ta, mà còn ảnh hưởng  đến kiếp đầu thai sắp tới của ông ở cõi trần.

Những điều chúng ta thấy trong hai thí dụ vừa kể trên và nhiều thí dụ khác nữa không làm chúng  ta ngạc nhiên, vì đó chỉ là những điều mà chúng ta có thể hiểu được qua kinh nghiệm sống ở cõi  trần. Ở cõi trần, chúng ta luôn nhận thấy định luật thiên nhiên không bao giờ khoan dung cho sự vô minh của chúng ta. Nếu người nào đó tưởng rằng lửa không làm phỏng da, thử đặt bàn tay  vào ngọn lửa, phút chốc chứng minh cho họ thấy là họ đã sai lầm. Cũng giống như thế đối với một người không tin có sự tồn tại sau khi từ trần, họ không ảnh hưởng gì đối với những sự kiện  của thiên nhiên; sau khi chết, không sớm thì muộn họ cũng khám phá ra là họ đã sai lầm. Loại người theo duy vật chủ nghĩa mà bà Blavatsky đã nói ở trên, là những người duy vật quá  hăng say và thô tục, chớ không phải những người bình thường tin theo chủ thuyết duy vật.  Những người theo chủ nghĩa duy vật, nếu còn giữ được những đặc tính cần thiết cho cuộc sống  cõi thượng giới, cũng có thể nhờ vào những đặc tính ấy cho những sinh hoạt về sau ở cõi này.

CẢNH THỨ NĂM; VÙNG THỨ BA CỦA CÕI THIÊN ĐÀNG

Đặc tính chính của cảnh này là sự diễn đạt lòng tôn sùng bằng hành động. Thí dụ tín đồ Thiên  Chúa Giáo ở cảnh này, thay vì chỉ sùng bái suông Đấng cứu thế, họ còn cảm thấy cần phải đi ra  ngoài đời làm việc cho Ngài. Đặc biệt chính cõi này là nơi thực hiện những chương trình và  những kế hoạch quan trọng mà ở cõi trần không nhận biết được; do cảm hứng từ lòng tín  ngưỡng tôn giáo từ cõi này, mà nhiều tổ chức lớn thực hiện những công việc từ thiện và nhân  đạo. Tuy nhiên, nên nhớ rằng chúng ta càng lên cao, càng có nhiều sự kiện phức tạp hơn, vì thế tuy chúng ta vẫn có thể đưa ra một đặc tính đặc biệt chung cho cảnh này, nhưng có nhiều sự thay đổi và ngoại lệ, không dễ dàng xếp loại vào một đề mục tổng quát.

Xin kể một trường hợp tiêu biểu mặc dù có hơi cao hơn trung bình một ít, về một người đàn ông  thực thi các dự tính quan trọng để cải thiện những điều kiện sống của tầng lớp thấp kém trong xã  hội. Ông ta có lòng tin tôn giáo sâu đậm, nhưng lại cảm thấy rằng giai đoạn đầu cần thiết để giúp  đỡ người nghèo là phải cải thiện điều kiện sống vật chất. Bây giờ ở cõi thiên đàng, chương trình  mà ông thực hiện với tình thương và sự chú ý từng chi tiết, đem lại thành công vẻ vang, đó là  chương trình mà ông đã suy nghĩ đến khi còn ở thế gian; rất tiếc hiện nay ông ta không có mặt ở thế gian để làm công việc đó.

Ông quan niệm, nếu sở hữu một gia sản khổng lồ, ông sẽ mua và chiếm độc quyền nhiều cơ sở mua bán phụ, và chỉ có 3 hoặc 4 công ty lớn. Ông nghĩ ra phương pháp để tiết kiệm thật nhiều  bằng cách loại bỏ việc quảng cáo cạnh tranh lãng phí; nhờ vậy ông có điều kiện tăng lương cho  công nhân mà không cần phải điều chỉnh giá hàng bán ra cho công chúng. Một phần dự án của  ông là mua đất đai xây cất nhà ở cho công nhân, mỗi căn nhà đều có một cái vườn nhỏ. Sau  nhiều năm làm việc, mỗi công nhân đều có cổ phần lợi tức của công ty, đủ để an hưởng lúc tuổi  già. Khi thực hiện chương trình làm việc như thế, người có lòng từ thiện này hy vọng cho thế giới  biết rằng có một khía cạnh thực dụng cao cả trong Thiên Chúa Giáo; ông cũng mong muốn đem  nhiều linh hồn về với đức tin, do sự tri ân đối với người đã mang lại lợi lộc vật chất cho họ.

Trường hợp tương tự là một vị hoàng tử Ấn Độ, ở thế gian ông có lý tưởng được giống như vị vua anh hùng và linh thánh Rama. Ông cố gắng sửa đổi cách sống và đường lối trị nước theo  gương Ngài. Ở cõi trần có nhiều biến cố đáng buồn xảy ra, cuốn theo nhiều công trình thất bại,  nhưng cuộc sống thiên đàng của ông hoàn toàn thành công, mỗi cố gắng và quyết định của ông  đều có kết quả mỹ mãn. Dĩ nhiên trong thâm tâm ông, đức Rama thường khuyên bảo và hướng  dẫn ông hành động, để đáp lại, ông luôn tôn sùng Ngài.

Một trường hợp cảm động và kỳ lạ khác liên quan đến tôn giáo của một nữ tu sĩ; bà không thuộc  nhóm trầm tư mặc tưởng, mà thuộc về những tổ chức dấn thân làm việc ngoài đời. Để làm châm  ngôn cho cuộc sống, bà dựa theo câu trích dẫn sau : “Điều gì mà con đã làm để giúp đỡ cho một  trong các huynh đệ Ta, chính con đã làm điều đó cho Ta.” Bây giờ, trên cõi thiên đàng, bà vẫn  nhiệt tâm làm việc theo lời chỉ dạy của đức Chúa Trời, bà luôn bận rộn chăm sóc người bệnh, nuôi dưỡng người đói khát, cứu giúp và phân phát quần áo cho người nghèo khổ. Điều đặc biệt  lạ kỳ trong trường hợp này là, khi bà giúp đỡ người nào thì đối với bà người đó biến đổi ngay  thành hình dáng đấng Christ mà bà ngưỡng mộ, sùng bái rất nhiệt tâm.

Một thí dụ đặc biệt về hai chị em rất mộ đạo. Một người bị tàn tật què quặt, người kia chịu hy sinh  cả cuộc đời để săn sóc em. Khi ở cõi trần, họ thường bàn bạc và dự tính sẽ thực hiện công việc  từ thiện và tôn giáo, nếu họ có phương tiện. Giờ đây nơi cõi thiên đàng, cô em trở nên khoẻ mạnh, không còn tàn tật nữa; người này là hình ảnh nổi bật đối với người kia, và mỗi người nghĩ  rằng người kia hợp tác với mình để thực hiện những ước muốn khi còn sống ở cõi trần. Đây là  một thí dụ rất hay về sự tiếp tục cuộc sống thường nhật của những người có mục đích vị tha; chỉ có một sự thay đổi duy nhất là sự từ trần đã loại trừ bệnh tật và đau khổ, và con người dễ dàng  làm công việc mà lúc ở cõi trần họ không thể làm được.

Ở cõi này cũng có nhiều hoạt động truyền giáo đúng đắn, chân thành cao độ, thể hiện đức tin và  sự quên mình; dĩ nhiên các nhà truyền giáo vô minh và cuồng tín không thể đạt đến cảnh này.  Người ta có thể gặp một ít trường hợp rất cao thượng, như trường hợp nhóm Livingstone; ở đây  họ bận rộn theo đuổi công việc họ thích, khuyến khích vô số người theo một tôn giáo đặc biệt nào  đó mà họ là người cổ động. Một trong những trường hợp nổi bật được chúng tôi chú ý là, một  người Hồi Giáo đang tự nghĩ mình làm việc với một tấm lòng rất nhiệt thành để chuyển hóa toàn  thế giới theo đúng với những qui tắc được chấp nhận theo đức tin Hồi Giáo.

Trong vài trường hợp, người có khả năng về phương diện nghệ thuật cũng có thể đạt tới cõi này.  Nhưng ở đây, cũng cần phân biệt là nếu nhạc sĩ hay họa sĩ có mục đích ích kỷ, muốn được nổi  tiếng, hoặc họ có thói quen tự để cho tình cảm ganh tỵ nghề nghiệp ảnh hưởng, tự nhiên không  thể tạo ra sức mạnh có thể đưa họ đến cõi thượng giới. Trái lại, nếu người nghệ sĩ chân chính vĩ  đại, ý thức mình được giao phó năng lực phi thường để nâng cao tâm linh của đồng loại,  những người đó sẽ đạt đến những cảnh còn cao hơn nữa. Ở giữa hai thái cực này, có những  người theo đuổi nghệ thuật chỉ vì ý thích riêng, hoặc coi đó như là một món quà hiến dâng cho  Thượng Đế mà không nghĩ đến đồng loại, trong vài trường hợp, những người này có thể đạt  được cảnh này của cõi thiên đàng.

Chúng ta có thể kể thí dụ về trường hợp một nhạc sĩ có lòng tín ngưỡng rất cao, chỉ biết luôn cố gắng làm việc trong tình thương yêu hiến dâng cho đức Christ, không biết gì về sự sắp xếp tráng  lệ của âm thanh và màu sắc là do cảm hứng sáng tác từ linh hồn, được tạo ra trong chất liệu cõi  thượng giới. Nhưng lòng nhiệt thành của ông không bị hoang phí, tuy ông không nhận thấy được  nhưng nó đã đem lại kết quả là sự an vui cho nhiều người. Do đó mà trong kiếp tái sinh sắp tới,  ông sẽ có lòng tôn sùng sâu đậm và có thiên tư cao về âm nhạc. Tuy nhiên, vì không có nguyện  vọng rộng lớn hơn để giúp đỡ nhân loại, cho nên cuộc sống thiên đàng loại này chỉ có thể lặp đi  lặp lại mãi. Nếu xét lại ba cảnh thấp của cõi thượng giới vừa đề cập ở trên, chúng ta nhận thấy  tất cả những trường hợp liên hệ đều biểu lộ lòng tận tụy dành cho cá nhân, như gia đình, bạn bè  hoặc một vị thần minh được nhân cách hoá, chớ chưa có lòng hiến dâng rộng lớn hơn cho toàn  thể nhân loại; điều này sẽ được thấy ở cảnh kế tiếp.

CẢNH THỨ TƯ; VÙNG TRỜI THỨ TƯ CỦA CÕI THIÊN ĐÀNG

Đó là cảnh cao nhất trong cõi sắc tướng (rupa); những hoạt động trong cảnh này rất biến đổi, khó  phân nhóm theo đặc tính đơn giản chung. Tuy nhiên chúng ta có thể phân chia thành bốn phần  chính: theo đuổi không ích kỷ kiến thức tâm linh; tư tưởng cao thượng của triết học hay khoa học; khả năng thực hành về văn hoá hay nghệ thuật với mục đích vị tha; và phụng sự chỉ vì lòng ham  thích phụng sự. Để hiểu rõ hơn những đặc tính của những nhóm này, chúng ta cần xét đến một  số thí dụ thuộc mỗi nhóm.

Tự nhiên là hầu hết cư dân có kiến thức tâm linh ở cảnh này đều có nguồn gốc từ những tôn giáo  ở cõi trần. Chúng ta cũng nhớ ở cảnh thứ sáu, tín ngưỡng của nhiều Phật tử dựa theo hình thức  tôn sùng vị giáo chủ vĩ đại, xem Ngài như là một cá nhân. Trái lại, ở đây chúng ta có các tín đồ thông minh hơn, nguyện vọng tối thượng của họ là được ngồi dưới chân Ngài để học hỏi, họ ngưỡng mộ Ngài như một vị Huấn Sư hơn là mục tiêu để thờ phượng.

Giờ đây trong cuộc sống cõi cực lạc, lòng ước vọng cao cả ấy được thực hiện, họ thực sự tiếp  thu bài học chân lý từ đức Phật. Hình ảnh mà họ tạo ra về Ngài không phải là một hình thể trống  rỗng, vì hình ảnh này thực sự được soi sáng bởi sự minh triết, quyền năng và đức từ bi kỳ diệu  của một bậc đại Huấn Sư cao cả nhất ở thế gian. Vì vậy, họ đạt được những kiến thức mới, và có  tầm nhìn sâu rộng hơn, điều này rất hữu ích cho kiếp sống tới. Có lẽ họ sẽ không nhớ lại các sự kiện riêng biệt mà họ đã học (tuy nhiên khi các sự kiện ấy hiện ra trong trí của họ trong một kiếp  tương lai, nhờ trực giác mà họ nhận thức lại chân lý), nhưng kết quả của sự học hỏi sẽ được đúc  kết vào chân ngã (ego), tạo nên khuynh hướng mạnh mẽ cho con người dễ chấp nhận những  triết lý sâu rộng hơn.

Chúng ta nhận thấy ngay một cách rất hiển nhiên và rõ ràng, một kiếp sống như thế trên cõi thiên  đàng sẽ thúc hối sự tiến hoá của chân ngã. Một lần nữa chúng ta thấy, người được sự hướng  dẫn của những vị Huấn Sư thật sự có năng lực, sẽ đạt được những lợi ích rất lớn trên đường tiến hóa.

Chúng ta cũng nhận thấy hình thức giáo huấn được đưa ra bởi một vị chưa tiến hóa cao lắm.  Như trường hợp một nhà văn có tiếng và phát triển về tâm linh, đã trở thành hình ảnh sống động,  và như một người bạn trong cuộc sống ở cõi thượng giới của người sinh viên. Với đức hạnh của  một linh hồn tiến hóa cao, nhà văn này có thể tự làm sinh động hình tư tưởng của mình; và trong  những trường hợp thích nghi, có thể soi sáng những giáo huấn chứa đựng trong sách vở do ông  đã viết ra, làm sáng tỏ hơn những ý nghĩa thâm sâu ẩn tàng bên trong.

Trong số những tín đồ Ấn Giáo, có nhiều người theo con đường minh triết đạt được cuộc sống  nơi cảnh này, nếu những vị huấn sư của họ có kiến thức tinh thần thực sự. Một vài người tiến bộ trong số những người theo phái Thần Bí Hồi Giáo (Sufis), và phái Bái Hỏa Giáo (Parsis) cũng đến  được cảnh này. Chúng ta cũng thấy có một số người theo thuyết Trực Quang (Gnostics) tâm linh  đã phát triển, lưu ngụ một thời gian dài nơi cõi trời này. Hồi Giáo cũng như Thiên Chúa Giáo hình  như không nâng đa số tín đồ của họ lên đến mức độ này; vài người thuộc hai tôn giáo ấy đạt  được cảnh này, vì họ có những đức tính của riêng họ, chớ không tùy thuộc vào giáo lý mà tôn  giáo đã dạy họ.

Trong cảnh này cũng có những sinh viên huyền bí học tận tụy và chân thành, nhưng chưa tiến bộ nhiều đến mức độ có quyền và năng lực khước từ cuộc sống thiên đàng, để phụng sự thế gian.  Trong số những người này, có một vị lúc còn sống được vài người trong nhóm quan sát viên biết  đến, đó là một vị tu sĩ Phật Giáo. Vị này đã hăng say nghiên cứu Thông Thiên Học, từ lâu ấp ủ hy  vọng sẽ có một ngày, được học hỏi trực tiếp với các vị Chân Sư minh triết. Hình ảnh đức Phật  luôn ngự trị trong cuộc sống thiên đàng của vị này, trong khi hai vị Chân Sư liên hệ đặc biệt với  Hội Thông Thiên Học xuất hiện như hai vị phụ tá của Ngài, để giảng dạy và bình luận giáo lý của  đức Phật. Cả ba hình ảnh này biểu lộ tròn đầy quyền năng và minh triết đại diện cho ba vị đó. Vì  vậy, vị tu sĩ này nhận được những giáo huấn thực sự về huyền bí học, kết quả có thể đem vị tu sĩ  này đến con đường điểm đạo trong kiếp đầu thai sắp tới.

Một trường hợp khác xảy ra từ trong hàng ngũ chúng ta được gặp ở cảnh này, cho thấy sự nghi  ngờ, khắc nghiệt không có cơ sở vững chắc sẽ đưa tới hậu quả đáng sợ. Đó là trường hợp một  học viên chân thành và hy sinh, nhưng đến cuối đời đã không may rơi vào tình trạng bị nghi ngờ một cách bất công bởi người bạn cũ và cả vị thầy của bà là bà Blavatsky. Thật đáng buồn mà  nhận thấy do cảm giác này mà bà bị ngăn trở đến mức độ không tiếp nhận được những lời giáo  huấn và những ảnh hưởng cao cả, mà đáng lẽ bà được vui hưởng trong cuộc sống ở cõi thiên  đàng. Không phải những ảnh hưởng cao cả và những giáo huấn không được đưa đến bà, điều  đó không bao giờ xảy ra, nhưng thái độ của chính cái trí của bà làm cho bà không tiếp nhận  được. Dĩ nhiên bà hoàn toàn không ý thức về điều ấy, và hình như bà tự nghĩ đã nếm đủ mùi vị sung sướng của sự liên hệ toàn vẹn và hoàn hảo với các vị Chân Sư. Tuy nhiên, các quan sát  viên nhận thấy rõ rằng sự tự giới hạn của bà là điều không may, nếu không bà đã có thể gặt hái  những ích lợi lớn hơn. Một kho tàng tình thương, năng lực và kiến thức hầu như không giới hạn chờ đón bà, nhưng chính vì sự không cảm nhận đã làm hư khả năng tiếp nhận những điều ấy. Cũng nên hiểu rằng, ngoài những vị Chân Sư minh triết liên hệ đến những hoạt động của chúng  ta, còn có những vị Chân Sư minh triết và nhiều trường phái huyền bí học khác, hoạt động theo  những đường lối tổng quát tương tự như đường lối của chúng ta, và chúng ta thường gặp những  học viên theo học những đường lối ấy trên cảnh này.

Bây giờ, chúng ta xét qua một hạng cư dân khác ở cảnh này, đó là những người có tư tưởng triết  lý và khoa học cao siêu. Nơi đây, chúng ta gặp nhiều nhà tư tưởng bất vụ lợi và cao quí, họ mong muốn có được sáng suốt và hiểu biết với mục đích khai ngộ và giúp đỡ người  chung quanh. Chúng ta không thể bao gồm trong hạng này, những học giả triết học Đông  phương cũng như Tây phương, đã phí thời giờ để lý luận dài dòng và phân tích vụn vặt; vì hình  thức bàn luận này chỉ vì tánh ích kỷ và lòng tự cao, nên nó không thể nào giúp con người hiểu  biết các sự kiện vũ trụ. Tự nhiên là những ý tưởng nông cạn không chứa đựng minh triết như thế,  không thể tạo ra những kết quả giúp con người phát triển ở cõi trí.

Ở cảnh này, chúng tôi nhận thấy có một học giả thuộc trường phái Tân Platon (Neoplatonic),  cũng may tên tuổi của người này còn được ghi lại trong lịch sử của thời kỳ đó. Trong kiếp sống ở cõi trần, ông đã hết sức cố gắng bền bỉ để nắm vững giáo lý của trường phái này. Bây giờ trên  cõi thượng giới, ông bận rộn trong việc làm sáng tỏ những bí mật của giáo lý ấy, và cố gắng hiểu  ý nghĩa của nó đối với cuộc sống và sự tiến hoá của nhân loại.

Một nhà thiên văn học đầu tiên có đức tin về chính thống giáo (orthodox), về sau do học hỏi  nghiên cứu, ông lại thiên về phiếm thần học (pantheism). Trong suốt kiếp sống ở cõi thiên đàng,  ông vẫn theo đuổi nghiên cứu và tiếp nhận được những sự hiểu biết từ Đại Đoàn Thiên Thần  (Great Orders of the Devas). Xuyên qua ảnh hưởng của các vị này mà các tinh tú to lớn vận  chuyển theo từng chu kỳ vĩ đại, diễn đạt như ánh sáng sống động, thay đổi nhanh chóng xuyên  thấu vạn vật. Ông mất hút trong trạng thái trầm tư về một toàn cảnh bao la với những đám tinh  vân đang xoáy lốc, dần dần thành lập các hệ thống hành tinh và thế giới. Ông dường như có  được ý tưởng lờ mờ về hình dáng vũ trụ, mà ông tưởng tượng giống như một con thú khổng lồ.  Tư tưởng của ông tỏa ra chung quanh ông có hình dạng như tinh linh, giống hình những ngôi  sao. Đối với ông, nguồn vui đặc biệt là nghe được loại âm nhạc có tiết điệu chậm, phát ra từ những hợp xướng vĩ đại của những bầu hành tinh đang chuyển động.

Loại hoạt động thứ ba ở cõi này là phát huy cao độ nghệ thuật và văn chương, để tạo nguồn cảm  hứng do ý muốn nâng cao và tinh thần hoá từng giống dân. Nơi đây, chúng ta thấy tất cả những  nhạc sĩ vĩ đại của nhân loại như Mozart, Beethoven, Bach, Wagner và nhiều người khác nữa,  đang rải khắp cõi thiên đàng những hoà điệu rất kỳ diệu, hơn cả tấu khúc hay nhất mà họ sáng tác ở cõi trần. Dường như từ các cõi cao, một dòng thác âm nhạc thiêng liêng tuôn đổ vào họ,  được họ chuyên biệt hóa và sáng tác lại theo cảm hứng của riêng họ, xong gởi đi khắp các cõi  lượn sóng vĩ đại của những hòa âm để làm gia tăng phúc lạc cho thế gian. Người có đầy đủ tri  thức trên cõi trí, có thể nghe rõ ràng và thưởng thức âm điệu kỳ diệu này. Ngay đối với các thực  thể không hoá thân ở cảnh này, mỗi thực thể được bao phủ bởi một đám mây tư tưởng của riêng  họ, cũng cảm hứng sâu xa và được ảnh hưởng nâng cao do âm điệu này.

Các hoạ sĩ và điêu khắc gia, nếu thực hiện nghệ thuật trong tinh thần hào phóng và vô tư lợi, ở cảnh này họ không ngừng sáng tạo và gởi ra mọi loại hình ảnh tuyệt vời, những hình ảnh này chỉ là những tinh linh giả tạo do tư tưởng họ tạo ra, đem lại hạnh phúc và khích lệ đồng loại. Những ý  niệm đẹp đẽ này không những chỉ đem lại niềm phúc lạc sâu xa cho những linh hồn đang sống ở cõi thượng giới, mà trong nhiều trường hợp còn ảnh hưởng đến trí não của những nghệ sĩ còn  sống ở cõi trần. Những nghệ sĩ hiện ở cõi trần này có thể được cảm hứng và tạo lại những dòng  nhạc ấy, để làm cho một phần nhân loại được trở nên cao thượng, giúp họ phấn đấu với những  hỗn loạn của cuộc đời trần tục.

Trên cõi này, chúng tôi còn ghi nhận có một hình ảnh đẹp và gợi cảm về một thiếu niên, trước kia  là một ca đoàn viên đã chết vào lúc 14 tuổi. Âm nhạc và nghệ thuật chiếm trọn linh hồn của cậu  bé, nó có ý muốn diễn đạt niềm tin tôn giáo đến nhiều người chen chúc nhau trong một thánh  đường rộng lớn; cùng lúc đó, nó tuôn xuống họ nguồn khích lệ và cảm hứng dồi dào từ cõi trời.  Cậu bé không suy nghĩ nhiều về bài hát, món quà lớn này; nhưng đã sử dụng món quà đó một  cách có ích lợi, cố gắng nâng tiếng nói đồng loại lên cõi thiên đàng, và âm thanh cõi thiên đàng  vang dội xuống nhân loại. Cậu bé luôn ước muốn hiểu biết về âm nhạc nhiều hơn để trở nên  xứng đáng hơn cho công việc nhà thờ. Ở cõi thiên đàng, ước muốn của nó đã có kết quả. Một  hình ảnh kỳ diệu, rõ ràng của nữ thánh Cécile thời trung cổ đang cúi mình trên nó, hình ảnh này  tạo nên do tư tưởng thương yêu của nó đối với bức ảnh trong kính màu ở cửa sổ nhà thờ. Về bên ngoài, hình ảnh này trình bày một huyền thoại mơ hồ về giáo hội với nét vẻ thô kệch, nhưng  lại che giấu một chân lý sinh động và diệu kỳ. Vì hình tư tưởng hồn nhiên của tuổi trẻ được một  trong các vị thiên sứ cao cả thuộc hệ thống âm nhạc ở trên trời làm sinh động, và qua đó, Ngài  dạy cho cậu bé ca đoàn một loại âm nhạc cao cả hơn những loại âm nhạc được biết ở thế gian.

Nơi cảnh này, cũng có một trong những hạng người bị thất bại ở cõi trần, do thảm kịch của kiếp  sống còn để lại những dấu vết kỳ lạ, mặc dù họ đã được ở cõi thiên đàng. Trong một thế giới mà  tất cả những tư tưởng của những người thương yêu đến với nhau trong tình thân thiết, người  này đang suy nghĩ và viết văn trong đơn độc. Khi còn ở thế gian, ông đã cố gắng viết một tác  phẩm lớn, vì thế đã từ chối không viết những điều tầm thường, không giá trị để kiếm miếng ăn  hàng ngày. Nhưng ông không nhận được sự ủng hộ của người đọc, nên phải kéo lê một cuộc đời  nghèo khổ, sống lang thang đói lạnh cho đến lúc lìa đời trong đau thương và buồn thảm. Ông đã  sống cô độc trọn cuộc đời, trong thời niên thiếu không bạn bè, không thân nhân. Khi đến tuổi  trưởng thành, chỉ biết làm việc theo ý mình, bỏ qua tất cả những điều chỉ dẫn để tạo cho cuộc  sống được khá hơn; ông chỉ theo đuổi lý tưởng vì tương lai và hạnh phúc nhân loại.

Bây giờ ông suy tư và viết, không có người nào mà ông đã yêu thương ở cõi trần hiện diện trong  cuộc sống thượng giới của ông; lý tưởng mà ông đã mơ mộng từ lâu trải ra trước mắt ông, vì đó  mà ông muốn sống. Ông muốn phụng sự nhiều người, và vui sướng thấy hạnh phúc con người  tràn ngập trong tâm hồn, điều này biến cuộc sống cô đơn của ông thành cuộc sống thiên đàng.  Khi ông tái sinh trở lại cõi trần, chắc chắn sẽ thủ đắc năng lực thành đạt, cũng như khả năng  hoạch định cho cuộc sống để thực hiện lý tưởng cao cả từ cõi trời này; điều này sẽ đem lại phần  nào hạnh phúc cho cuộc sống con người ở thế gian.

Trên cảnh này ta cũng gặp nhiều người, khi sống ở cõi trần đã hiến mình phụng sự kẻ khác, vì họ cảm nhận được sự ràng buộc trong tình huynh đệ giữa nhân loại, họ phụng sự vì lý tưởng phụng  sự mà không vì mong muốn làm hài lòng một vị thần linh nào. Họ làm việc với sự hiểu biết và  minh triết, chuyên tâm thiết lập nhiều dự án từ thiện lớn và những kế hoạch vĩ đại để cải thiện thế giới. Trong lúc ấy, họ phát triển những năng lực cho phép họ thực hiện được những điều này vào  một ngày nào đó nơi cõi vật chất.

THỰC TẠI CỦA SỰ SỐNG THIÊN ĐÀNG

(The Reality of The Heaven Life)

Vài nhà phê bình do sự hiểu biết không rõ ràng giáo lý Thông Thiên Học về sự sống sau khi từ trần, cho rằng sự sống của một người bình thường ở cõi hạ thiên chỉ là một giấc mơ và là một ảo  ảnh. Khi họ tự tưởng tượng đang hạnh phúc giữa những người thân và bạn bè, hoặc vui sướng  với nhiều dự án thực thi được thành công trọn vẹn, thực tế họ cũng chỉ là nạn nhân của một thứ ảo giác lạ lùng. Sự kiện này trái với điều mà người ta gọi là “thực tế khách quan bền vững” (solid  objectivity) của cõi trời do chính thống giáo hứa hẹn. Có hai cách để giải đáp lại sự phê bình này:  Thứ nhất, khi chúng ta nghiên cứu các vấn đề của kiếp sống tương lai, chúng ta không nên chú  trọng đến giả thuyết nào trong hai giả thuyết giúp chúng ta hài lòng (tóm lại, đó chỉ là vấn đề ý  kiến) mà phải xem xét giả thuyết nào là đúng thực. Thứ nhì, khi tìm hiểu trọn vẹn sự kiện chúng  ta sẽ thấy rằng, những người tán thành thuyết ảo tưởng, đang nhìn vấn đề theo quan điểm sai  lầm, và hoàn toàn hiểu lầm các sự kiện.

Đối với điểm thứ nhất, trạng thái thực sự của vấn đề có thể được khám phá dễ dàng do những  người đã phát triển năng lực, với đầy đủ tri thức bước qua được cõi thượng giới trong lúc còn  sống ở cõi trần. Những điều họ nghiên cứu được về cõi này, hoàn toàn phù hợp với những lời chỉ dạy của các đấng Chân Sư minh triết xuyên qua vị sáng lập vĩ đại của Hội chúng ta, cũng là vị huấn sư chúng ta là bà Blavatsky. Điều này loại bỏ ngay được thuyết “thực tế khách quan bền  vững” đã được trình bày ở trên, và trách nhiệm đưa ra những bằng chứng có thể dành cho  những người bạn chính thống giáo của chúng ta. Đối với điểm thứ nhì, nếu người ta cho rằng  con người chưa hiểu hoàn toàn về sự thực ở những cảnh thấp của cõi thiên đàng thì ảo giác vẫn  tồn tại ở đây, và chúng ta phải thành thật chấp nhận điều này. Nhưng đó không phải là ý nghĩa  thông thường mà những người phê bình đưa ra; họ thường bị đè nặng bởi cảm giác rằng cuộc  sống ở cõi thiên đàng có nhiều ảo tưởng và vô ích hơn đời sống thế gian, ý tưởng này không thể hoàn toàn bác bỏ sự kiện.

Người ta biện luận rằng chính chúng ta tự tạo ra giới hạn quanh chúng ta, nên chúng ta chỉ thấy  một phần rất nhỏ của cõi thượng giới. Thật ra, ở tại cõi trần cũng thế, con người không bao giờ cảm nhận được toàn thể thế giới bên ngoài, họ chỉ cảm nhận một phần nào đó qua những giác  quan, tùy theo sự thông minh cũng như trình độ giáo dục. Điều hiển nhiên là trong suốt cuộc  sống ở cõi trần, sự nhận thức của một người trung bình về mọi vật chung quanh, quả thật hoàn  toàn sai lầm, rỗng tuếch và không chính xác. Họ không biết rằng năng lực mạnh mẽ của dĩ thái,  của cõi trung giới và thượng giới, nằm bên trong tất cả những gì mà họ thấy, tạo nên thành phần  quan trọng nhất của thế giới. Đối với cõi vật chất, họ cũng không biết rõ những sự kiện hữu hình  khó hiểu chung quanh mà họ gặp hàng ngày. Sự thật là ở các cõi thiên đàng, họ sống trong một  thế giới mà phần lớn do họ tự sáng tạo ra; vì do vô minh mà con người không nhận thấy điều đó  ở cõi thượng giới hoặc ở tại cõi trần.

Người ta nói rằng ở cõi thiên đàng, con người dùng tư tưởng để thay thế các thực thể. Họ hoàn  toàn đúng, vì cõi này là cõi của tư tưởng, không điều gì có thể là thực ngoại trừ tư tưởng. Ở đó,  chúng ta nhận ra sự kiện lớn ấy mà ở cõi trần chúng ta không nhận ra được, vậy thì cõi nào có  nhiều ảo tưởng hơn? Những tư tưởng của con người ở cõi này quả nhiên là thực tại, và có thể tạo ra những kết quả rõ ràng lên những người còn sống. Những kết quả này chỉ có thể hữu ích,  vì ở cảnh cao đó không có gì khác hơn là tư tưởng thương yêu. Như thế, chúng ta thấy do sự lầm lẫn mà người ta cho rằng cuộc sống ở cõi thiên đàng là một ảo ảnh; những người này chỉ hiểu biết một cách phiếm diện về những trạng thái ở cõi thiên đàng. Sự thực là khi càng lên cao,  chúng ta càng tiến đến gần với cái thực tại duy nhất.

Người mới nghiên cứu có lẽ sẽ hiểu về sự thực và hoàn toàn tự nhiên về phần cao hơn này của  cuộc sống con người, nếu họ xem điều này chỉ là kết quả do cuộc sống ở hai cõi thấp. Tất cả chúng ta đều biết rõ rằng, những lý tưởng tuyệt diệu và những nguyện vọng cao cả nhất không  bao giờ được nhận thức hoặc tạo nên kết quả hoàn toàn ở cõi trần, cho nên về phương diện này,  chúng ta dường như đã phí năng lực và hoài công vô ích. Nhưng chúng ta biết vấn đề này không  phải như thế, vì định luật bảo tồn năng lượng tác động ở những cõi cao cũng như ở những cõi  thấp. Trong khi sống ở cõi trần, phần nhiều năng lượng tâm linh do một người phát ra không thể tác động lên họ, vì trước khi những thể cao được giải thoát khỏi gánh nặng của xác thân, họ không thể đáp ứng lại những rung động tinh vi, thanh nhẹ. Nhưng lần đầu tiên trong cuộc sống  cõi thiên đàng, tất cả những chướng ngại này không còn nữa, năng lượng tích luỹ lập tức tuôn ra,  tạo thành một phản động lực tự nhiên, theo định luật công bình tuyệt đối. Như ông Browning đã  diễn tả một cách hùng hồn như sau:

“Điều thiện sẽ không bao giờ mất, cuộc sống sẽ diễn tiến như trước. Điều ác không có giá trị, là  hư không, là sự yên lặng ẩn tàng. Điều nào đã là thiện thì cũng sẽ thiện; đối với điều ác, phải làm  thiện nhiều hơn. Trên mặt đất, các vòng cung bị đứt đoạn, nhưng trên thiên đàng là một vòng tròn  hoàn hảo.”

“Tất cả điều chúng ta đã ước muốn, hy vọng và mơ mộng về điều thiện sẽ xuất hiện. Không phải  chỉ là hình ảnh mà là chính nó: không đẹp, không tốt, không quyền lực. Giọng hát của ai đã đi xa,  nhưng vẫn tồn tại đối với nhà soạn nhạc. Khi sự trường cửu xác định khái niệm của một giờ.” “Lý tưởng cho thấy quá cao, làm anh hùng đối với thế gian quá khó. Khi sự đam mê rời bỏ mặt  đất, nó tự biến mất trên bầu trời. Âm nhạc được gởi đến Thượng Đế bởi người đang yêu và thi  sĩ. Ngài chỉ nghe một lần cũng đủ, chúng ta sẽ nghe trở đi trở lại.”

Một điều khác cần nhớ là cách thức mà thiên nhiên đã sắp xếp cho cuộc sống sau khi từ trần rất  hợp lý, vì nó đưa đến mục đích làm cho mọi người có được hạnh phúc tròn đầy, tùy theo khả năng tiếp nhận hạnh phúc của họ. Nếu ở cõi thiên đàng chỉ có một khuôn mẫu hạnh phúc theo  như lý thuyết chính thống giáo, sẽ luôn luôn có một số người chán ngán thứ hạnh phúc ấy, có  một số người không thể theo đuổi nó, cũng có những người không muốn tham dự vào đường  hướng đó do thiếu sự giáo dục cần thiết. Do kiếp sống ở cõi thiên đàng phải kéo dài vô tận, một  sự kiện hiển nhiên khác cần nêu ra là sẽ có sự bất công, nếu chỉ có một loại phần thưởng dành  cho tất cả mọi người vào cõi thiên đàng, không phân biệt điều gì mà họ mong muốn và điều gì  mà họ đáng được thưởng.

Đối với thân nhân và bạn bè, có sự sắp xếp như thế nào để có thể được toàn vẹn hạnh phúc?  Nếu người đã từ trần có thể theo dõi những sự thay đổi vô thường của số phận người thân còn  sống ở cõi trần, thì họ khó có thể vui hưởng phúc lạc cõi thiên đàng. Trái lại nếu họ không biết  điều gì xảy đến cho người thân, họ phải chờ đợi những người thân lìa trần mới có thể gặp lại, như thế sẽ có một giai đoạn trì hoãn đau khổ thường kéo dài qua nhiều năm, không kể đến nhiều  trường hợp người thân thay đổi rất nhiều, tình cảm không còn như xưa.

Thiên nhiên có phương cách rất khôn ngoan để cho mọi người tránh được những sự khó khăn  này. Con người tự chọn cho mình thời gian cũng như tính chất của kiếp sống trên cõi thiên đàng,  do những nguyên nhân mà họ đã tạo ra khi còn sống ở thế gian. Vì thế, con người chỉ có thể thụ hưởng được một số lượng mà họ đáng được hưởng, và phẩm chất của niềm phúc lạc thích hợp  nhất đối với tính khí của họ. Những người mà họ yêu thích nhất, sẽ ở với họ mãi mãi, và luôn  biểu lộ những đức tính tốt và cao quí nhất. Trong khi không bao giờ có bóng dáng của sự bất hoà  và thay đổi xen vào giữa họ, vì người ở cõi thiên đàng lúc nào cũng nhận được những thân nhân  đúng như ước muốn. Sự sắp xếp này đem lại cho con người những điều cao đẹp nhất mà họ có  thể tưởng tượng được, tất cả những suy tưởng này là ý niệm tốt đẹp nhất của con người, nhưng  chân lý là ý niệm của Thượng Đế.

SỰ TỪ BỎ CUỘC SỐNG CÕI THIÊN ĐÀNG

Từ lâu, các sinh viên huyền bí học đều biết, sự từ bỏ phần thưởng cõi thiên đàng là một trong  những phương thức để cho một người có trình độ cao tiến triển nhanh hơn. Nói cách khác, là từ bỏ sự sống chân phúc ở cõi thiên đàng giữa hai lần đầu thai, trở lại cõi trần nhanh hơn để thực  hiện công việc ở thế gian. Từ ngữ “phần thưởng” được sử dụng ở trên không được chính xác  lắm, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn nếu xem kiếp sống ở cõi thiên đàng như là kết quả cần thiết của  cuộc sống ở thế gian, hơn là một phần thưởng. Có thể nói trong suốt kiếp sống ở thế gian, nhờ có tư tưởng và khát vọng cao cả mà con người làm khởi động một số năng lực tâm linh; năng lực  này sẽ tác động trở lại con người, khi họ đạt tới cõi thượng giới. Nếu năng lượng này tương đối ít  oi, sẽ bị tiêu hao nhanh, và thời gian của kiếp sống trên cõi thượng giới sẽ tương đối ngắn ngủi;  trái lại, nếu năng lượng đó được tạo ra nhiều, thời gian lưu ngụ ở cõi thiên đàng của họ sẽ kéo  dài lâu hơn.

Vì vậy, khi con người càng phát triển về tâm linh, thời gian sống ở cõi thiên đàng sẽ lâu hơn.  Nhưng chúng ta đừng nghĩ rằng vì thế mà sự tiến hóa của họ bị chậm lại, hoặc họ có ít cơ hội để giúp đỡ đồng loại. Sự lưu lại ở cõi thiên đàng tuyệt đối cần cho những người chưa đạt đến trình  độ phát triển tâm linh cao. Vì chỉ trong những điều kiện của cuộc sống cõi thiên đàng, những khát  vọng của họ mới có thể phát triển thành quan năng, kinh nghiệm thành minh triết. Như thế, sự tiến bộ mà linh hồn đạt được sẽ lớn hơn nhiều đối với trường hợp do một phép mầu nào đó, họ có thể kéo dài cuộc sống ở thế gian, tương đương với thời gian ở cõi thiên đàng. Nếu trái lại,  toàn thể định luật thiên nhiên sẽ không có hiệu quả nữa, vì càng tiến gần mục đích quan trọng,  càng phải cố gắng quyết liệt để tự chiến thắng bản thân. Thật là phi lý, nếu nghĩ rằng một định  luật thiên nhiên có mâu thuẫn với minh triết cao siêu.

Việc từ bỏ cuộc sống cõi thiên đàng không phải là điều có thể đạt được đối với tất cả mọi người.  Đại luật không cho phép bất cứ người nào từ chối một cách mù quáng sự việc gì mà họ không  biết rõ, nó cũng ngăn cản con người đi lạc ra khỏi đường tiến hoá bình thường, ngoại trừ cho đến  khi nào có sự chắc chắn rằng việc tách ra khỏi định luật ấy đem lại lợi ích tối hậu cho họ.

Theo nguyên tắc chung, không có người nào có thể từ bỏ chân phúc cõi thiên đàng, trước khi họ đã có được kinh nghiệm về nó trong lúc sống ở cõi trần. Đến khi con nguời tiến hoá đầy đủ để có  thể nâng tâm thức lên cõi thượng giới, và có thể nhớ lại đầy đủ, rõ ràng những sự kiện vinh  quang ở cõi ấy, từ đó làm cho sự nhận thức ở cõi trần được thăng hoa.

Một ý tưởng nhỏ có thể làm cho sự kiện này được sáng tỏ và vô tư hơn; chúng ta có thể nói  được rằng, sự tiến hoá của linh hồn là vấn đề chính nơi đây. Chỉ có người mong muốn hy sinh  chân phúc cõi thiên đàng, mới hiểu được đầy đủ động lực của việc làm này, và ép buộc phàm  nhân phải làm theo quyết định của họ. Thật ra khó có sự hoàn toàn công bằng, vì sự thụ hưởng  phúc lạc ở vùng sắc tướng của cõi thiên đàng, mặc dù thuộc về chân ngã (ego) nhưng chỉ thuộc  về chân ngã qua sự biểu lộ của phàm ngã. Đó là sự sống của phàm ngã, với tất cả môi trường  quen thuộc vây quanh, được mang theo lên vùng thấp của cõi thiên đàng. Vì thế, trước khi có thể từ bỏ tất cả điều đó, phàm ngã phải nhận thức rõ ý nghĩa của sự từ bỏ ấy, trong vấn đề này phải  có sự hòa hợp giữa hạ trí và thượng trí.

Muốn được như thế, người ấy phải đạt được tâm thức cõi thượng giới ngay khi sống ở cõi trần,  tương đương với tâm thức mà người ấy sẽ có sau khi lìa trần. Nhưng chúng ta cần nhớ, sự tiến  hoá của tâm thức bắt đầu từ thấp lên cao. Đa số nhân loại tương đối chưa được phát triển, họ chỉ có tâm thức trong thể xác mà thôi. Thể vía của họ phần nhiều chưa có hình dạng nhất định, và  chưa được sắp xếp hoàn hảo. Như chúng ta đã biết, thể vía là cầu liên lạc giữa linh hồn và lớp  áo vật chất, và là vận cụ tiếp nhận cảm giác; nhưng thể vía của những người này chưa xứng  đáng là vận cụ để con người thật sử dụng trong sự biểu lộ năng lực.

Đối với các giống dân tiến bộ, thể vía của họ phát triển nhiều hơn, và trong nhiều trường hợp,  tâm thức trong nó tương đối có khả năng hoàn toàn; nhưng hầu hết những người này chỉ nghĩ về mình, phần nhiều chỉ ý thức về những tư tưởng của riêng mình, ít nghĩ đến những người chung  quanh. Khi tiến hóa cao hơn, một số ít người theo đuổi nghiên cứu huyền bí học; họ được thức  tỉnh đầy đủ trên cõi này, sử dụng được hoàn toàn những quan năng thể vía và đạt được nhiều lợi  ích.

Tuy nhiên lúc đầu, nhiều người khi tỉnh thức trở lại trong xác thân, không nhớ lại được những  hoạt động và kinh nghiệm cõi trung giới; có khi sau một thời gian khá lâu, họ vẫn chưa có được  khả năng này. Sự nhớ được hay không, những sinh hoạt ở cõi trung giới không có gì quan trọng,  theo nguyên tắc chung, họ có ký ức từng phần và gián đoạn; nhưng trong nhiều trường hợp, với  những lý do khác nhau, cũng không cần thiết để bộ óc xác thân ghi nhận lại những sự việc ở những cõi cao.

Dĩ nhiên, khi có được ý thức khá rõ ràng ở cõi thượng giới, chứng tỏ họ sẽ còn tiến bộ xa hơn  nữa. Đối với một người đang phát triển bình thường và đều đặn, tâm thức ấy thường chỉ được  thiết lập khá rõ ràng giữa cõi trung giới và cõi trần. Nhưng trong tình trạng mất quân bình và giả tạo của nền văn minh hiện đại, sự phát triển của con người không phải luôn luôn được điều hoà  và bình thường, vì thế có những trường hợp tâm thức phát triển ở cõi thượng giới được nối kết  một cách hợp lý với cõi trung giới, mà không truyền xuống bộ óc xác thân.

Những trường hợp này rất hiếm, nhưng hiển nhiên là có, đó là những trường hợp ngoại lệ. Một  phàm nhân thuộc loại này, có thể đã tiến hoá đủ để hưởng niềm phúc lạc khó tả của cõi thiên  đàng, và cũng có quyền từ bỏ nó; trong khi họ không thể mang ký ức đó xuống thấp hơn cuộc  sống cõi trung giới. Vì theo giả thuyết, cuộc sống cõi trung giới có thể biểu hiện hoàn toàn và đầy  đủ tâm thức của phàm ngã; sự nhớ lại như thế là đúng theo lẽ phải, mặc dù không có ký ức nào  xuống bộ óc xác thân trong trạng thái thức tỉnh. Một điều quan trọng cần nhớ là, mặc dù chính  phàm ngã phải từ bỏ, nhưng cũng chính nó phải kinh nghiệm; nó phải mang những ký ức trở lại  cõi mà nó đã từng hoạt động bình thường với đầy đủ tri thức; nhưng cõi đó không nhất thiết phải  là cõi trần, nếu những điều kiện được đầy đủ ở cõi trung giới. Trường hợp như thế ít khi xảy ra,  ngoại trừ những người ít nhất đã được một trong những vị Chân Sư minh triết thu nhận làm đệ tử dự bị.

Người nào muốn hoàn thành công việc quan trọng này, phải làm việc với tất cả lòng chân  thành để trở nên xứng đáng là một dụng cụ hữu ích, được đặt vào bàn tay của những vị trợ giúp  thế gian; họ phải hăng hái, chân thành tuyệt đối làm việc vì sự tốt lành tâm linh của đồng  loại. Không nên tự phụ cho rằng mình đã xứng đáng nhận được một vinh dự nào đó, thay vì phải  hy vọng một cách khiêm nhường, có lẽ sau một hay hai kiếp cố gắng thật nhiều, họ có thể được  Chân Sư thu nhận.

CÕI THƯỢNG THIÊN

(The Higher Heaven – World)

Bốn cảnh thấp của cõi thượng giới, còn được gọi là cõi hạ thiên hay cảnh “sắc tướng” (Rupa), là  nơi sinh hoạt của phàm nhân tạm bợ; bên trên cõi hạ thiên là ba cảnh cao của cõi thượng giới,  còn được gọi là cõi thượng thiên hay cảnh “vô sắc tướng” (Arupa), là quê hương thực sự và  tương đối thường hằng của con người. Khi giác quan đã được khai mở ở cõi này, con người sẽ thấy rõ vì đã vượt lên khỏi ảo giác của phàm ngã và trung gian méo mó của cái ta thấp hèn. Tâm  thức của họ có thể còn yếu, mơ màng, chưa thức tỉnh hẳn, nhưng ít nhất sự thấy của họ đúng  thực, tuy còn giới hạn. Những trạng thái tâm thức khác biệt hẳn với những gì mà chúng ta quen  thuộc ở cõi trần; những từ ngữ về tâm lý học không thể diễn tả đúng, mà còn đưa đến sự hiểu  lầm. Cõi này được gọi là vùng thực thể (noumenal), để phân biệt với thế giới hiện tượng  (phenomenal), đó là vùng không có hình thể, trái với vùng có hình thể. Đúng ra cõi này vẫn còn là  một thế giới của sự biểu lộ, dù nó thực hơn đối với những cõi thấp, nhưng nó vẫn có hình thể, tuy  chất liệu cấu tạo nên những hình thể ấy rất ít và bản chất rất thanh nhẹ.

Sau khi hoàn tất giai đoạn mà chúng ta gọi là cuộc sống thiên đàng, còn một giai đoạn khác mà  linh hồn phải trải qua trước khi tái sinh lại cõi trần, đa số con người đều trải qua giai đoạn tương  đối ngắn này. Tuy nhiên, chúng ta cần phải đề cập đến nó, nếu muốn có khái niệm đầy đủ về sự sống siêu hình của con người.

Chúng ta thường hiểu sai về kiếp sống con người, vì chúng ta có thói quen nhìn một cách phiếm  diện và không để ý đến bản chất thực sự và mục đích của nó. Thường chúng ta nhìn kiếp sống  này trên quan điểm thể xác vật chất, mà không theo quan điểm của linh hồn, như thế không được  quân bình. Mỗi tác động của chân ngã xuống các cõi thấp và thu hồi trở lại, quả thực là một  đường đi hình vòng cung rộng lớn. Chúng ta hãy lấy một đoạn ngắn của hình cung phía dưới  vòng tròn này, xem nó như là một đường thẳng từ khởi đầu đến chấm dứt, để diễn tả một sự kiện  quan trọng chưa hoàn tất, trong khi điểm trở về thực sự của vòng tròn hoàn toàn ngoài tầm hiểu  biết của chúng ta.

Hãy nghĩ về một người thật sự đang ở cõi riêng của người ấy; khi vừa bắt đầu có ý thức rõ ràng  vị thế của mình, một ý muốn được biểu lộ phát xuất từ nội tâm bắt họ phải tuân theo. Ý muốn này  ghi ấn tượng lên người ấy bởi luật tiến hóa do ý chí của đức Thượng Đế (Logos). Người ấy làm  giống như hành động của Ngài, bằng cách tự đi xuống những cảnh thấp hơn.

Trong tiến trình này, con người tự khoác lên mình những lớp y phục dệt bằng thứ vật chất của  những cõi khác nhau mà họ trải qua; như cõi thượng giới, cõi trung giới và cõi trần, trên một bước vững chắc hướng ra ngoài. Khởi sự từ một mảnh nhỏ của sự hiện tồn ở cõi trần, mà chúng  ta gọi là sự sống của họ, sức mạnh hướng ngoại rất mạnh. Trong những trường hợp bình  thường, ở giữa con đường ra đi này, sức mạnh ấy yếu dần và kiệt quệ, khi ấy họ bắt đầu con  đường hướng nội trên vòng cung trở về.

Điểm nối tiếp giữa con đường ra đi và con đường trở về không thay đổi thình lình và không tạo  thành một góc cạnh, mà vẫn là một phần trên đường cong của vòng tròn; giống như một hành  tinh quay chung quanh quỉ đạo, khi đến một viễn điểm (aphelion) trong không gian và quay vòng  trở lại. Đó là điểm quay về của một tiểu chu kỳ tiến hoá, mặc dù nó không rõ ràng đối với chúng  ta. Ở Ấn Độ thời cổ đại, điều đó đánh dấu như là lúc chấm dứt thời kỳ gia trưởng (Grihastha) của  cuộc sống con người ở cõi trần.

Từ điểm ấy, tất cả năng lực con người thu rút trở về bên trong, giảm dần sự chú ý đối với những  sự vật trần gian, và tập trung sự chú ý vào các cõi cao siêu. Từ đó chúng ta có nhận xét rằng,  những điều kiện sống hiện đại của người Tây phương rất không thích hợp với sự tiến bộ thực sự. Lúc con người rời bỏ xác thân, không phải là một sự kiện quan trọng đặc biệt trên vòng cung tiến  hóa. Sự biến đổi tiếp theo cũng không có gì quan trọng, đó là lúc mà người ta thường gọi là sự chết ở cõi trung giới, và sự sinh ra ở cõi thượng giới, thật ra đó chỉ là một sự chuyển đổi tâm thức  từ vật chất cõi tình cảm sang vật chất cõi trí, trong tiến trình của sự thu rút trở vào như chúng ta  đã đề cập ở trên.

Kết quả sau cùng của kiếp sống chỉ biết được khi trong diễn trình trở về, một lần nữa tâm thức  hướng về trung tâm của nó là chân ngã trong cõi thượng thiên, quê hương của nó. Khi ấy con  người có được những đức tính mới mà họ đã đạt được trong suốt tiểu chu kỳ tiến hoá đặc biệt  này. Lúc ấy con người có một cái nhìn thoáng qua về toàn thể sự sống mà nó đã trải qua, trong  phút chốc một tâm thức rõ ràng hơn loé lên trong linh hồn để nó thấy được những kết quả của  kiếp sống vừa mới hoàn tất, và trong một mức độ nào đó, nó thấy được vài điều sẽ xảy ra trong  kiếp kế tiếp.

Cái nhìn thoáng qua này không cho con người biết bản chất của kiếp sắp tới, ngoại trừ một cảm  nhận tổng quát không rõ ràng. Con người thấy được mục đích chính của kiếp sống sắp tới,  nhưng giá trị đặc biệt của sự thấy này là để cho linh hồn học được bài học nghiệp quả của hành  động trong quá khứ. Bài học này đem lại cho linh hồn một cơ hội, nó có thể ứng dụng được nhiều  hay ít còn tùy theo giai đoạn tiến hóa mà nó đã đạt được.

Đầu tiên, linh hồn chỉ ứng dụng được một ít những gì nó đã trải qua, vì khi tâm thức còn chưa  phát triển, nó khó có thể hiểu rõ và phối hợp các sự kiện với nhau; nhưng nó sẽ khai mở dần  năng lực lượng định những gì nó thấy. Về sau, nó có khả năng nhớ lại tia chớp loé lên của ký ức  ở cuối kiếp sống trước và so sánh chúng; dần dần nó có thể ước tính sự tiến bộ mà nó đang đạt  được trên con đường nó phải trải qua.

CẢNH THỨ BA; VÙNG THỨ NĂM CỦA CÕI THIÊN ĐÀNG

Đây là cảnh thấp nhất của cõi vô sắc tướng, cũng là vùng có nhiều dân cư nhất trong số những  vùng mà chúng ta đã biết. Có gần 60 tỷ linh hồn con người đang trên con đường tiến hoá thuộc  hàng nhân loại, ngoài ra còn có một số tương đối ít những nhân vật có khả năng hoạt động ở cảnh thứ nhì và thứ nhất. Mỗi linh hồn hiện diện như một hình bầu dục, trước tiên chỉ là một lớp  màng mỏng không màu sắc, gần như vô hình, trạng thái rất mỏng mảnh. Khi chân ngã phát triển,  hình thể này có nhiều màu sắc chiếu lấp lánh, giống như bong bóng bọt xà bông; màu sắc chỉ hiện trên mặt ngoài, giống như sự thay đổi màu sắc do ánh nắng mặt trời chiếu lên tia nước của  một thác nước.

Lớp màng này được cấu tạo bằng một chất rất thanh nhẹ, tinh vi, thanh khiết, sống động mãnh  liệt và dao động như một ngọn lửa đang linh hoạt. Khi phát triển, nó trở thành một bầu phát quang đầy màu sắc chói sáng; những rung động cao độ làm phát ra từ mặt ngoài những gợn  sóng với màu sắc luôn thay đổi; những màu sắc chưa từng có ở cõi trần, sáng chói, lóng lánh  nhưng êm dịu, không thể diễn tả bằng ngôn ngữ. Hãy đem những màu sắc lúc mặt trời sắp lặn ở Ai Cập, cộng thêm vào sự êm dịu tuyệt vời của bầu trời Anh quốc vào một buổi hoàng hôn đẹp  trời, rồi nâng cao độ ánh sáng, sự trong suốt và rực rỡ hơn những màu sắc vẽ trên hộp bánh của  trẻ em. Nếu chưa được nhìn thấy, người ta không thể tưởng tượng được, vẻ đẹp của những bầu  chói sáng này hiện ra dưới nhãn quang của vị đã mở được khả năng thấu thị, khi họ nâng tâm  thức lên cõi trời này.

Tất cả những nhân thể (causal bodies) này đều chứa đầy một thứ lửa sinh động, rút ra từ một cõi  cao hơn; và các bầu này (tạm gọi là bầu nhân thể) dường như được nối liền lên cõi cao bằng một  sợi dây ánh sáng rung động lấp lánh, được nhắc đến trong Thiền Định Chân Kinh (Stanzas of  Dzyan): “Tia lửa được treo từ Ngọn Lửa bằng một sợi dây rất mịn của vũ trụ điện (Fohat).”

Linh hồn càng phát triển càng nhận được nhiều ảnh hưởng hơn từ đại dương vô tận của Tinh  Thần Thiêng Liêng (Divine Spirit), tuôn xuống qua sợi dây này như một con kênh – sợi dây này  giãn nở, trở thành một vận hà rộng rãi cho ảnh hưởng từ trên xuống như nước lụt đến cảnh dưới  kế đó; giống như một cái vòi rồng nối liền giữa trời và đất; ở phần cao của nó, giống như là một  bầu to lớn được đổ vào bởi một nguồn suối sinh động, và nhân thể dường như hoà tan trong biển  ánh sáng.

Đoạn Chân Kinh đó nói tiếp: “Sợi chỉ nối liền Người Canh Gác (the Watcher) với hình bóng của  Ngài, trở nên rắn chắc và sáng chói hơn mỗi khi có sự thay đổi. Ánh sáng mặt trời buổi sáng sớm  đã biến đổi thành ánh sáng chói lọi của buổi trưa. Ngọn Lửa đã nói với Tia Lửa: đó là bánh xe  hiện tại của người. Người chính là Ta, là hình ảnh của Ta và cái bóng của Ta. Ta đã tự khoác lên  lớp áo trong người, và người là hiện thể của Ta, cho tới ngày sẽ đến với chúng ta, khi người sẽ lại trở thành chính Ta và những kẻ khác, chính người và Ta.”

Những linh hồn còn liên hệ đến xác thân vật chất, được phân biệt với những linh hồn không còn  liên hệ đến xác thân vật chất do những cách rung động khác nhau trên bề mặt của những bầu  nhân thể. Cho nên ở cảnh này, người ta có thể biết ngay một người đang có luân hồi ở cõi trần  hay không. Một số đông linh hồn dường như còn mơ màng, chỉ có tri thức một phần; trong số đó,  một ít còn ở trạng thái chỉ là lớp màng không màu sắc. Những linh hồn đã thức tỉnh trọn vẹn, xuất  hiện sáng chói rõ ràng, nổi bật giữa đám đông như ngôi sao lớn giữa các ngôi sao khác. Giữa  những linh hồn phát triển và những linh hồn kém phát triển, có nhiều cấp độ khác nhau biểu hiện  thành những tầm cỡ, màu sắc và vẻ đẹp khác nhau, mỗi bầu nhân thể tượng trưng chính xác giai  đoạn tiến hoá đã hoạch đắc.

Dù có được tâm thức cõi này, đa số các linh hồn vẫn chưa phát triển đủ để hiểu mục đích của sự sống, hay luật tiến hoá mà họ đang dấn thân vào. Họ đi vào con đường tuân theo sự thúc đẩy  của ý chí vũ trụ (cosmic will) và cũng do lòng ham sống (tanha) tức lòng khao khát mù quáng để được biểu lộ sự sống, một sự ham muốn tìm một vùng mà ở đó họ có thể cảm xúc và tri thức sự sống. Trong giai đoạn đầu, các linh hồn kém phát triển này, không thể cảm biết những sự rung  động cực kỳ nhanh và xuyên suốt của loại vật chất rất thanh nhuyễn ở cõi riêng của chúng. Chỉ có những chuyển động mạnh, thô kệch và tương đối chậm của loại vật chất nặng nề thuộc về cõi  trần mới có thể gây nên sự đáp ứng ở những linh hồn ấy. Vì thế chỉ có ở cõi trần, họ mới có thể cảm thấy sống động; điều này giải thích tại sao họ có sự ham muốn cuồng nhiệt tái sinh nơi cõi  thế gian. Trong giai đoạn đó, sự ham muốn của họ rất thích hợp với định luật điều khiển sự tiến  hóa của họ. Các linh hồn chỉ có thể phát triển do sự va chạm từ bên ngoài; họ đáp ứng lại dần  những va chạm, mà trong giai đoạn sơ khởi này họ chỉ có thể tiếp nhận chúng trong kiếp sống ở cõi trần. Năng lực đáp ứng dần dần tăng lên, trước hết họ trở nên có tri thức đối với những rung  động cao và thanh nhẹ ở cõi vật chất; kế đó một cách chậm chạp hơn, họ đáp ứng được những  rung động cõi trung giới. Thể vía của họ từ trước đến nay chỉ là chiếc cầu chuyển cảm xúc đến  linh hồn, dần dần trở thành vận cụ có tổ chức hoàn hảo có thể sử dụng được, và ý thức của họ bắt đầu hướng vào bên trong thay vì chỉ là những cảm xúc thuần tuý của thể xác. Do tiến trình học hỏi và đáp ứng với những va chạm bên ngoài, về sau những linh hồn học cách  “tập trung” tâm thức vào thể trí, sống trong hình ảnh tư tưởng và hòa hợp với những hình ảnh  của chính họ đã tạo ra, do đó cái trí của họ có thể kiểm soát tư tưởng. Xa hơn nữa là một giai  đoạn thật dài mà trọng tâm hướng về nhân thể, và linh hồn nhận ra sự sống thực sự của chúng.  Khi ấy, những linh hồn sẽ đạt tới cảnh cao hơn nữa và không còn cần đến kiếp sống thấp thỏi ở cõi trần. Trong hiện tại chúng ta đang đề cập đến đa số người còn kém tiến hoá, còn lần mò theo  những gợn sóng của đại dương phàm ngã ở những cõi thấp của sự sinh tồn; họ chưa nhận thức  được rằng những phàm ngã chỉ là phương tiện cho sự tiến hóa. Họ không thấy quá khứ và tương  lai của họ, cũng chưa ý thức ở cõi riêng của chính họ, một cách chậm chạp họ rút ra kinh nghiệm  và đồng hoá nó, họ phát triển sự nhận thức về vài điều tốt đáng làm và những điều xấu không  nên làm; tuy chưa hoàn hảo nhưng phàm ngã bắt đầu ghi nhận tiếng nói lương tâm, cảm giác  được điều phải và điều quấy. Theo đà phát triển, cảm giác này càng ngày càng xác định rõ ràng  hơn và trở nên hiệu quả hơn trong việc hướng dẫn cách cư xử.

Do có tâm thức tròn đầy, xuất hiện như ánh chớp, linh hồn tiến hóa ở cảnh này phát triển đến  mức có thể xem xét lại quá khứ, theo dõi những nguyên nhân, và học hỏi nhiều sự kiện từ việc  nghiên cứu quá khứ. Từ đó những rung động được gởi xuống dưới trở nên xác định và rõ ràng  hơn, và được biểu lộ trong tâm thức ở cõi thấp như là những trực giác chính xác.

Cần nhắc lại rằng, những hình ảnh tư tưởng ở những cảnh “sắc tướng”, không mang vào được  những cảnh cao cõi thiên đàng. Tất cả những ảo ảnh đều tự biến mất; mỗi linh hồn biết sự liên hệ thật sự của nó, thấy những linh hồn khác và được nhận thấy trong bản chất vinh quang của chính  nó, như một con người bất tử trải qua từ sự sống này đến sự sống khác, với tất cả những sợi dây  ràng buộc kết nối với bản thể thật sự của nó.

CẢNH THỨ NHÌ; VÙNG THỨ SÁU CỦA CÕI THIÊN ĐÀNG

Sau khi khảo sát qua vùng đông đúc dân cư, chúng ta sẽ đi qua vùng thưa thớt dân cư hơn,  giống như ra khỏi thành phố đến miền đồng quê yên tịnh; vì ở giai đoạn tiến hoá hiện tại, chỉ có  một số ít người lên được mức độ cao này. Dù linh hồn kém tiến hóa nhất trong số những linh hồn  ở cảnh này, cũng tự tri thức rõ ràng và nhận thức hoàn toàn môi trường chung quanh. Ít nhất đến  một mức độ nào đó, những linh hồn ở nơi đây có thể xem xét lại những giai đoạn mà họ đã trải  qua trong quá khứ, và nhận thức được mục đích cũng như phương pháp của sự tiến hoá. Con  người biết rằng họ phải tự phát triển và nhận ra những giai đoạn của cuộc sống vật chất, cũng  như những giai đoạn sau khi rời bỏ xác thân xuyên qua những vận cụ thấp của họ. Họ thấy phàm  nhân mà họ đã liên kết là một phần của chính họ, họ cố gắng hướng dẫn nó, dùng kiến thức và  kinh nghiệm của quá khứ để nhận định những nguyên tắc đức hạnh, cũng như xác định điều phải  hay quấy. Họ chuyển đạt những điều này xuống thể trí thấp, chăm sóc và hướng dẫn những hoạt  động của nó. Ở phần đầu của cuộc sống nơi cảnh này, họ thường thất bại trong việc làm cho cái  trí thấp hiểu được nền tảng và nguyên tắc hợp lý mà họ đưa ra. Về sau, họ thành công hoàn toàn trong việc gieo ấn tượng về những ý niệm trừu tượng như chân lý, sự công bình và danh dự, và  chúng trở thành những quan niệm chi phối sự sống của hạ trí.

Có những nguyên tắc về đức hạnh mà xã hội, quốc gia và tôn giáo áp đặt để dẫn dắt con người  trong đời sống hằng ngày, đã bị loại bỏ do sự cám dỗ thình lình, do lòng ham muốn và đam mê.  Nhưng có vài điều mà con người đã phát triển không thể làm, đó là những điều đối nghịch với  chính bản năng của họ; họ không thể lừa dối, phản bội hay có hành động bất kính. Một vài  nguyên tắc đã cắm rễ sâu vào bản thể của họ; không thể làm trái lại được, dù đó là sự căng  thẳng của hoàn cảnh, hoặc một dòng thác quyến rủ, vì các nguyên tắc này là sự sống của linh  hồn. Tuy nhiên, trong khi linh hồn vừa thành công trong việc hướng dẫn vận cụ thấp, linh hồn  hiểu một cách không rõ ràng về vận cụ này, và cách thức sinh hoạt của nó, vì nó chỉ thấy một  cách lờ mờ các cõi thấp, hiểu về nguyên tắc hơn là chi tiết. Một phần sự tiến hoá của nó ở cõi  này bao gồm sự tiếp xúc một cách có tri thức và trực tiếp với phàm ngã, đại diện một cách bất  toàn cho nó ở các cõi dưới.

Điều này có thể được hiểu rằng ở cảnh này chỉ có những linh hồn rất mong muốn phát triển tâm  linh. Dĩ nhiên họ trở nên thụ cảm nhiều đối với những ảnh hưởng từ các cõi cao hơn. Con kênh  thông thương lớn hơn và mở rộng, tạo thành lối chảy cho một dòng nước rất mạnh. Dưới ảnh  hưởng này, tư tưởng có phẩm chất đặc biệt rõ ràng, ngay ở người ít phát triển, điều này làm cho  hạ trí có khuynh hướng thiên về triết lý và tư tưởng trừu tượng. Đối với người tiến hoá cao hơn,  họ có tầm nhìn sâu xa thông suốt cả quá khứ, nhận ra những nguyên nhân và kết quả cũng như  những phần nhân quả còn lại chưa thanh toán xong.

Không bị ràng buộc bởi xác thân, những linh hồn sống trên cảnh này có nhiều cơ hội phát triển, vì  họ có thể tiếp nhận những sự hướng dẫn từ các nhân vật cao hơn, và tiếp xúc trực tiếp với các vị huấn sư của họ. Sự liên lạc không còn bằng những hình ảnh tư tưởng nữa, mà là những tia sáng  chói khó tả, tinh túy của tư tưởng bay như một ngôi sao từ linh hồn này đến linh hồn kia. Những ý  tưởng được diễn đạt như những làn sóng ánh sáng phát ra từ ngôi sao trung tâm, không cần bày  tỏ riêng rẽ. Một tư tưởng giống như một cái đèn sáng đặt trong một gian phòng, nó làm hiện ra tất  cả đồ vật chung quanh, không cần phải diễn tả bằng lời nói gì cả.

CẢNH THỨ NHẤT; VÙNG THỨ BẢY CỦA CÕI THIÊN ĐÀNG

Đây là cảnh vinh diệu nhất của cõi thượng giới. Chỉ có một số ít cư dân đến từ hàng nhân loại  chúng ta; không ai có thể lên được cảnh cao này ngoại trừ những vị Chân Sư minh triết và từ bi  cùng các đệ tử được điểm đạo của các Ngài. Không thể nào tả được vẻ đẹp của hình dáng, màu  sắc và âm thanh ở cảnh này, vì ngôn ngữ hữu hạn của thế gian không đủ từ ngữ diễn đạt sự lộng  lẫy sáng chói của nó. Trong những linh hồn này có một số những người tận tâm thuộc giống dân  chúng ta, do kết quả mà họ đã gieo ở những cõi thấp. Những người này đã hoàn tất sự tiến hóa  tinh thần, bản thể cao siêu của họ chiếu soi qua những thể thấp, từ đó họ nhìn phàm nhân không  hơn gì một bức màn ảo ảnh. Họ nhận ra rằng, họ không phải là bản thể thấp hèn, họ chỉ dùng nó  như vận cụ để kinh nghiệm. Đối với người tiến hoá hơn trong số những nhân vật ở cảnh này, dù  còn một số trở ngại trong sự biểu lộ nhưng họ cũng nhận thức rõ ràng giữa vận cụ và cái ngã  bên trong. Do đó tâm thức của họ không bị gián đoạn, chẳng những từ ngày này đến ngày khác,  mà cả từ kiếp này đến kiếp khác. Đối với họ, nhớ lại những kiếp sống quá khứ không khó khăn,  chúng luôn hiện diện trong tâm thức, họ cảm thấy chúng chỉ là một kiếp duy nhất, thay vì nhiều  kiếp sống riêng rẽ.

Ở độ cao này, linh hồn ý thức được những cảnh thiên đàng thấp hơn cũng rõ như cảnh của họ đang ở. Nếu họ biểu lộ ở những cảnh thấp ấy bằng hình tư tưởng trong kiếp sống ở cõi thiên  đàng của những bạn bè, họ có thể làm cho những hình tư tưởng này hữu dụng hoàn toàn đối với bạn bè. Ở cảnh thứ ba, và ngay ở phần thấp của cảnh thứ nhì, linh hồn chỉ tri thức lờ mờ các  cảnh bên dưới, và chỉ tác động trong hình tư tưởng theo bản năng và tự động. Nhưng khi linh  hồn đã đến cảnh thứ nhì, tầm nhìn của nó liền trở nên sáng tỏ hơn. Linh hồn thấy thích thú khi  nhận ra những hình tư tưởng như là những vận cụ, xuyên qua đó nó có thể tự diễn đạt nhiều hơn và theo nhiều phương cách hơn trước kia, khi nó chỉ diễn đạt qua phàm ngã. Bây giờ, linh hồn sinh hoạt với nhân thể trong ánh sáng tuyệt diệu và sự lộng lẫy của cảnh thiên  đàng cao nhất, tâm thức của nó tức khắc hoạt động hoàn hảo ở mọi nơi của những vùng thấp;  linh hồn sẽ hướng dẫn và thêm năng lực vào hình tư tưởng, nếu họ muốn dùng các hình này  trong mục đích giáo hóa.

Từ mức độ cao nhất của cõi thượng giới, đa số ảnh hưởng tuôn xuống từ các vị Chân Sư minh  triết làm việc cho sự tiến hoá của nhân loại. Các Chân Sư tác động trực tiếp vào linh hồn con  người, ban rải năng lực cảm ứng, kích thích sự tăng trưởng của linh hồn, làm phát triển trí tuệ và  thanh lọc tình cảm con người. Những thiên tài nhận được sự soi sáng từ đó, tất cả những cố gắng vươn lên đều được hỗ trợ. Như những tia sáng của mặt trời tuôn ra khắp nơi, xuất phát từ một trung tâm duy nhất, mỗi hình thể tiếp nhận và sử dụng chúng tùy theo bản chất riêng của nó.  Cũng giống như thế, các Huynh Trưởng của nhân loại có trách nhiệm ban phát ánh sáng và  nguồn sống xuống cho tất cả mọi linh hồn; mỗi người sử dụng nhiều hay ít tùy theo khả năng tiếp  nhận và đồng hóa của họ, từ đó họ tăng trưởng và tiến hoá. Như vậy, sự vinh diệu cao siêu của  cõi thượng giới cũng đồng nghĩa với sự vinh quang của việc phụng sự kẻ khác, và những ai đã  tiến hoá về tinh thần là những dòng suối tuôn tràn sức mạnh đến cho những người còn đang leo  lên những nấc thang tiến hóa.

***

Tổng hợp sách trong Thư viện trái đất 

Facebook page

ĐỂ LẠI NHẬN XÉT

Please enter your comment!
Please enter your name here