NHỮNG VỊ CỨU TRỢ VÔ HÌNH – CHƯƠNG 17: Công việc cứu trợ trong thời kỳ chiến tranh

0
112

CHƯƠNG XVII

Công việc cứu trợ trong thời kỳ chiến tranh

Nhiều người muốn biết nhóm cứu trợ giúp ích được gì trong thời kỳ chiến tranh. Trong những giai đoạn đáng sợ nầy, những đoàn viên của nhóm cứu trợ làm việc với một tinh thần rất nhiệt thành. Trong những lúc ấy, có rất nhiều công việc không sao kể hết được, cho nên số đoàn viên cũng tăng lên đáng kể. Ngay trong thời kỳ không có chiến tranh, cũng có một số người cứu trợ ở bên ngoài hội TTH, nhưng trong thời kỳ chiến tranh có thêm hàng ngàn người tình nguyện làm công việc cứu trợ. Có thể những người nầy trước đó chưa bao giờ nghĩ tới có loại công việc giống như vậy.

Những hậu quả do chiến tranh tạo ra thay đổi rất bất thường. Có khi cả ngàn người thình lình bị “ném” vào cõi trung giới. Phần đông những người nầy còn trẻ trung, khỏe mạnh, nhiều người có trình độ cao. Một người chết vì tuổi già, khi cường độ cảm xúc đã bị tiêu mòn gần hết, phần cảm xúc còn lại trong người họ tương đối yếu ớt, dễ kiểm soát, nên không gây khó khăn nhiều cho họ. Lúc tuổi đang còn trẻ trung, khỏe mạnh, tràn đầy nhựa sống, cường độ cảm xúc cao, lúc sống họ được hưởng nhiều cảm giác hơn, nhưng khi bị chết thình lình họ bị giằn vật, khổ sở, vì những cảm xúc ấy. Vì thế cuộc sống ở cõi trung giới của những người nầy có những vấn đề khác biệt cần phải giải quyết.

Vậy tình trạng của những người bị chết bất thình lình như vậy sẽ ra sao? Một số sẽ bị rơi vào trạng thái vô thức đối với thế giới chung quanh trong một thời gian dài. Đó là do kết quả của sự sắp xếp lại những chất liệu của thể vía, mà tôi đã đề cập trong chương trước. Tất cả những chất liệu thô kệch nhất của cõi trung giới được xếp bao bọc bên ngoài, chung quanh thể vía hình bầu dục, đưa đến kết quả là thể vía của con người chỉ cảm nhận và đáp ứng được với sự rung động của những tư tưởng và những vật thể thô kệch tương đồng với lớp vỏ của thể vía.

Tất cả những tình cảm cao thượng như tình yêu, sự thành tâm, sự thông cảm, lòng yêu nước… được biểu lộ qua những phần tử tinh vi của thể vía. Trong khi những cảm xúc thấp kém như dục vọng, giận hờn, ganh tỵ, oán thù… được biểu lộ qua những phần tử thô kệch của thể vía. Nơi cõi trần, nếu bình thường con người sống đức hạnh, không quen với những ý tưởng thô kệch, thì khi chết họ không quen với những rung động của lớp màng bao bọc bên ngoài thể vía, đưa đến tình trạng là họ sống với giấc mơ màu hồng bên trong lớp vỏ đậm đặc, nên không có ý thức gì đến hoàn cảnh khó chịu chung quanh. Cho đến khi những phần tử thô kệch bên ngoài thể vía dần dần tan rã hết, khi đó họ sẽ thức tỉnh ở cảnh giới cao hơn. Nhưng tiến trình ấy phải mất nhiều thời gian, có khi nhiều tuần, hoặc nhiều tháng.

Một số người chết đột nhiên mất hết ý thức, giống như trạng thái bất tỉnh đột ngột, kế đó họ lại cảm thấy khỏe khoắn hơn và nhẹ nhàng hơn trước rất nhiều. Sự kiện đó không những chỉ vì họ được giải thoát ra khỏi trọng lượng của cơ thể vật chất, mà còn do sự thoát khỏi áp xuất của bầu khí quyển, trung bình khoảng 1 ký lô trên 1 phân vuông, tức khoảng 2 tấn trên toàn cơ thể. Chúng ta đã quen chịu đựng sức

ép thường trực ấy lên trên cơ thể đến nỗi không ý thức là có nó, nhưng khi sức ép ấy không còn nữa, chúng ta có cảm giác như đã bỏ đi được một gánh nặng trên vai.

Thường một người lính bị chết thình lình không nhận thức và cũng không tin là mình đã chết. Họ cố nhặt lấy khẩu súng, nhưng không nắm được nó, họ cố tìm cách liên lạc với đồng đội, nhưng không có kết quả. Họ sẽ quay sang nói với vị cứu trợ: “Anh nói rằng tôi đã chết, nhưng tôi cảm thấy tôi sống động hơn 10 phút trước đây.” Đôi khi họ lại muốn tiếp tục chiến đấu, vị cứu trợ cần phải làm dịu họ lại và giải thích sự việc. Cuối cùng, người lính sẽ nhận ra tình trạng hiện tại của họ, thường thì họ rất thích thú, vì thấy được rằng có nhiều cơ hội mới đang đợi họ. Có người lại vượt qua ranh giới của địch quân để quan sát tình hình, rồi trở lại kể cho đồng đội còn sống nghe, nhưng không thể nào gây được ấn tượng lên trí não của đồng đội. Khi ấy những đồng đội còn sống thường nghĩ rằng đó chỉ là sự tưởng tượng không đáng lưu ý.

Một số người lính đã chết chỉ lo lắng về gia đình của họ, những người khác lại mong muốn học hỏi thật nhiều những điều kiện sinh hoạt mới nơi họ đang ở. Vị cứu trợ vô hình phải sẵn sàng đối phó với những nhu cầu khác nhau ấy. Công việc chính đòi hỏi họ phải làm là chỉ dạy, hướng dẫn cho người mới chết. Thường thì giải thích cho họ những hiểu biết về Minh Triết Thiêng Liêng. Không phải là chúng tôi muốn áp đặt sự tin tưởng của chính mình lên người khác, nhưng bởi vì giáo lý ấy có thể giải thích những sự kiện mà họ thắc mắc. Sau khi được nghe dẫn giải, nhiều người chiến sĩ đã chết mong muốn và sẵn sàng làm bất cứ điều gì cho đồng đội của họ, những đồng đội còn sống hay đã chết, và những hoạt động của họ rất đa dạng và hữu ích.

Tôi không thể kể ra hết những hoạt động quá rộng lớn nơi đây, nhưng tôi sẽ đưa ra vài công việc tiêu biểu được những đoàn viên thiếu niên thực hiện trong thời kỳ chiến tranh và họ đã đạt được những thành tích đáng kể. Cyril, người thực hiện việc cứu trợ trong câu chuyện lữ quán bị cháy và câu chuyện hai anh em, vào thế kỷ trước em là một sĩ quan trong quân đội Anh quốc, hai lần bị thương nặng và chịu nhiều khổ sở khi bị bắt và cầm tù tại Đức, sau đó được trả tự do nhờ trao đổi tù binh. Kiếp nầy em là một vị cứu trợ trẻ tuổi rất nhiệt tâm. Sau đây là những công nghiệp khác của em.

Câu chuyện của Ursula

Khi làmviệc với tư cách những người cứu trợ vô hình tại chiến trường, chúng tôi gặp một vị tướng chỉ huy vừa mới chết, mà chúng tôi gọi là Harold. Ông ta rất sẵn sàng nghe những lời giải thích của chúng tôi về cõi trung giới và sớm có thể sống hòa hợp, vui vẻ trong cuộc sống mới. Nhưng trong lòng ông còn bị đeo đuổi bởi một nan đề chưa giải quyết xong. Ông là con trai trưởng trong gia đình, và có một em trai nhỏ hơn ông một hay hai tuổi, hai anh em rất thân nhau. Ngay sự kiện gần đây, họ cùng yêu một cô gái cũng không làm họ mích lòng nhau. Harold đã hứa hôn với Ursula trước khi chiến tranh xảy ra. Julian, em trai của Harold, cũng thầm yêu tha thiết Ursula, nhưng cương quyết đè nén tình cảm của mình.

Cả hai anh em đều phải gia nhập quân ngũ khi bắt đầu có chiến tranh. Sau một thời gian ngắn chiến đấu ác liệt trên chiến trường, Julian không may bị thương và được giải ngũ. Chàng trở về nguyên quán và thường xuyên có dịp gặp gỡ Ursula, cô gái mà chàng hằng yêu tha thiết. Ursula cảm nhận được điều đó, và khi xét lại lòng mình, nàng kinh ngạc khi nhận thấy mình cũng rung động đáp lại tình yêu ấy. Tuy hai người đều không thốt ra những lời yêu thương nhau, nhưng cả hai đều cảm thấy xấu hổ về sự đam mê của họ. Họ cho rằng đó là sự phản bội đối với người vắng mặt, trong khi anh ấy không có chút gì nghi ngờ. Julian và Ursula càng ngày càng đau khổ hơn. Mỗi lần nghỉ phép ngắn hạn về thăm nhà, Harold nhận thấy có một điều gì khác thường, mặc dù anh không biết chuyện gì xảy ra.

Với một tâm trạng không được vui, Harold bị tử trận trong lúc đang hướng dẫn quân sĩ tiến lên gần chiến thắng. Chàng đã chết một cách yên ổn, chỉ có một điều làm chàng nuối tiếc là để lại sự đau buồn cho Ursula và Julian. Chàng thường đến gần họ, cố an ủi họ, và với giác quan bén nhậy của thể tình cảm, chàng khám phá ra là hai người ấy yêu nhau tha thiết. Chàng muốn có thể giúp đỡ, hợp tác cho hai người, nhưng trong lòng họ cứ khư khư bám giữ tư tưởng tội lỗi, cho nên họ lại hiểu lầm ý tưởng tốt của người anh đang cố ảnh hưởng lên họ.

Sự kiện người anh thường trở về thăm họ (trong thể vía), lại làm cho họ luôn nghĩ đến anh. Hình ảnh của người anh trong trí họ, làm cho họ càng cảm thấy xấu hổ, có mặc cảm tội lỗi và họ lại càng cương quyết chống lại sự cám dỗ của tình yêu. Thực vậy, Ursula đã tự thề với lòng mình là suốt đời chung thủy chỉ một mình chàng. Trong khi đó, Harold rất lo lắng, không hiểu tại sao những người thân của mình hiểu lầm mình và không chấp nhận ý muốn chân thành của mình.

Cyril, vị cứu trợ trẻ tuổi, lãnh trách nhiệm trong trường hợp nầy, nhận thấy rằng chỉ khi nào công việc gia đình được giải quyết xong thì “thân chủ” của em mới được yên tâm nơi cõi trung giới, do đó em theo Harold về nhà để tìm hiểu xem có cách nào giải quyết vấn đề. Hai người gặp Julian và Ursula đang đi chung nhau dưới bóng mát của những tàng cây. Họ rất vui vẻ, nhưng đồng thời trong lòng họ luôn có cảm giác tội lỗi, không yên. Cyril cố gắng tối đa gieo ấn tượng lên trí họ rằng họ đã được người anh chấp nhận. Julian và Ursula cảm nhận được như vậy, nhưng họ lại nghĩ rằng ý tưởng ấy sinh ra do ảo tưởng, để bào chữa tội lỗi. Vị cứu trợ trẻ tuổi của chúng ta cuối cùng cũng phải chịu thua. Em cầu cứu với người bạn lới tuổi và nhiều kinh nghiệm hơn, nhưng những cố gắng của họ cũng không đạt được kết quả gì. Sau cùng, Cyril nói:

– Chúng ta không bao giờ thành công, nếu không trực tiếp nói chuyện với họ, nếu huynh làm cho tôi hiện hình, tôi sẽ thuyết phục họ. Vị cứu trợ lớn tuổi đồng ý, và vài phút sau, một em bé trai hăng hái, vui vẻ chạy về phía đôi tình nhân đang buồn rầu, la lên:

– Tôi mang tin của Harold đến cho hai người, Harold muốn hai người cưới nhau và hạnh phúc, anh ấy gởi đến hai người sự thương mến và chúc lành.

Đôi tình nhân rất sửng sốt và có vẻ không vui lắm, khi thình lình bị một em bé lạ xen vào chuyện tình cảm kín đáo, riêng tư của họ. Phải một lúc sau Ursula mới lấy lại được bình tĩnh và hỏi:

– Em là ai? Em ám chỉ điều gì, khi em nói là đưa tin cho Harold? Bộ em không biết là anh ta đã chết rồi hay sao? Bé trai trả lời:

– Tôi là Cyril, nhưng điều đó không quan trọng, không có thì giờ nói về chuyện của tôi, hãy cố hiểu những gì tôi nói và làm theo lời của Harold.

Cyril biết rằng không nên phung phí năng lực cần thiết dùng cho sự hiện hình, em vội vã giải thích về sự chết, và rằng Harold đang đứng bên cạnh hai người, rất sống động và ý thức về tình cảm giấu kín của hai người, anh hoàn toàn tán thành và mong muốn cho hai người có hạnh phúc.

Julian la lên:

– Ursula! Tôi tin đó là sự thật! Từ trong đáy lòng tôi, tôi cảm giác được điều ấy, tôi biết đó là sự thật.

Ursula trả lời một cách thận trọng:

– Ồ! Tôi cũng chỉ mong có thể tin được điều đó, nhưng tôi không chắc lắm.

Nàng quay sang em bé và nói:

– Em nói là Harold ở tại đây, em có thể chỉ cho tôi thấy anh ấy một lúc được không? Tôi muốn được nói chuyện với anh ấy, rồi tôi mới tin.

Cyril hỏi xin người bạn lớn tuổi và được anh bằng lòng. Hình dáng của Harold hiện ra, mỉm cười, đôi mắt long lanh nhìn họ; anh bước tới trước nắm lấy bàn tay của Ursula và nhẹ nhàng đặt lên bàn tay của Julian. Rồi chàng đưa tay lên với dáng điệu một giáo sĩ đang ban phúc lành, xong chàng lấy trong áo ra một cây thánh giá bằng vàng, định trao cho Ursula, nhưng trước khi Ursula có thể cầm lấy, thì anh đã biến mất. Cyril quay về phía vị cứu trợ lớn tuổi:

– Chúng ta có thể lấy cái đó cho nàng được không?

Vị cứu trợ lớn tuổi xoay qua bên một lúc và khi quay trở lại, anh đặt cây thánh giá (bằng vật chất) trong tay Cyril; em đưa cho Ursula và nói:

– Đây là cây thánh giá mà Harold muốn cô giữ nó.

Đôi tình nhân vẫn còn đứng lặng người, nắm chặt tay nhau với một tâm trạng rất ngạc nhiên về những sự việc xảy ra. Ursula nhận cây thánh giá, cô nói:

– Bây giờ tôi công nhận đây không phải là giấc mơ, cây thánh giá nầy tôi đã tặng cho Harold trước ngày anh nhập ngũ, tên của tôi được khắc trên đó vẫn còn đây.

Julian thình lình trực nhớ lại, nắm lấy tay Cyril và nói:

– Chúng tôi chưa nói cám ơn em. Tôi không biết em là ai và tôi cũng không biết rõ chuyện nầy, nhưng em đã giúp chúng tôi quá nhiều, không có gì đền đáp được, và tôi không biết làm sao để chứng tỏ được lòng biết ơn của chúng tôi.

Ursula bước tới trước, cuối xuống định hôn em bé, nhưng em sợ hãi và biến mất, và đôi tay nàng chỉ nắm được khoảng không khí, làm nàng giật mình và thất vọng. Julian tìm cách an ủi nàng và họ nói chuyện với nhau nhiều giờ về điều kỳ diệu xảy đến cho họ hôm nay. Julian rất ân hận không có cơ hội để chứng tỏ lòng biết ơn đối với em bé. Chàng có ý định là nếu trời ban cho họ con cái, thì đứa con trai đầu lòng sẽ được đặt tên là Cyril để tưởng niệm ngày hôm nay. Ý kiến nầy làm cho Ursula đỏ mặt, nhưng nàng hoàn toàn đồng ý.

Sự việc trên làm cho Ursula thích tìm hiểu về những vấn đề xảy ra sau khi chết nói riêng và những hiện tượng siêu nhiên nói chung. Cyril nhận thấy có cơ hội giúp đỡ một người tìm hiểu Minh Triết Thiêng Liêng, cho nên ngày hôm sau, em đi gặp Ursula một lần nữa. Trong lúc nàng đang tản bộ một mình trong vườn cây với một con chó, Cyril được cấp trên cho phép hiện hình trong vài phút để nói chuyện và giới thiệu tên của vài quyển sách Thông Thiên Học, mà sau đó nàng đã tìm đọc. Nàng rất vui mừng khi gặp lại em, nhưng lần nầy, em cẩn thận giữ “khoảng cách an toàn.” Một điều thú vị là con chó lúc đầu cũng ngạc nhiên và tò mò, nhưng sau đó, nó tỏ ra rất thân thiện với Cyril.

Di chúc của vị sĩ quan

Một trường hợp khác cũng được tường thuật lại bởi vị cứu trợ trẻ tuổi vài ngày sau đó. Một sĩ quan sau khi chết rất bận tâm đến việc phânchia tài sản của anh ta. Anh có một bất động sản và một số tiền mà anh phải phân chia bằng di chúc. Trước kia, anh bị mẹ ép cưới một người đàn bà, mà anh không thương yêu, nên anh đã gia nhập quân đội, như là một lý do để trì hoãn cuộc hôn nhân bất đắc dĩ ấy.

Anh đã bị thương trên chiến trường, và trong khi nằm điều trị trong một bệnh viện, anh bị tiếng sét ái tình với một cô y tá người Pháp.

Anh đã cưới cô y tá làm vợ theo nghi thức của Pháp, mà không báo cho người mẹ ở Anh quốc biết, sợ bà giận, vì anh đã cãi lời và anh cũng biết rằng bà không thích người ngoại quốc. Anh nghĩ rằng tốt hơn là đợi sau khi dứt chiến tranh sẽ đem vợ về trình diện với mẹ và giải thích mọi việc. Anh cũng hy vọng là sẽ có một đứa con trai bồng về nhà để làm dịu lại cơn giận của mẹ.

Bây giờ anh đã chết, cho nên những dự định đều không thực hiện được. Anh đã bị trúng đạn trong lúc liều chết để cứu một binh sĩ bị thương. Cả hai người đều bị thương nặng, cố bò vào hầm trú ẩn. Trước khi chết, anh quyết định cố gắng viết chúc thư. Anh lo lắng không biết trong lúc hỗn loạn nơi chiến trận tờ di chúc sẽ được tìm thấy hay không, có vào đúng tay người nhận không và tờ di chúc như thế có được xem là hợp pháp không? Cũng may là anh ta có mang theo bút máy, nhưng không có giấy, ngoại trừ bức thư cuối mà anh nhận được từngười vợ, có một trang giấy trắng phía sau. Anh bắt đầu dùng hết tàn lực còn lại để viết.

Mặc dù đang đau đớn và kiệt lực, anh cố gắng diễn tả chính xác và rõ ràng ước muốn của anh, là tất cả tài sản của anh phải được chuyển qua người vợ của anh. Anh cẩn thận viết địa chỉ của người vợ, và thêm rằng, nếu ai tìm được chúc thư nầy xin gởi nó cho vị luật sư của anh ở Luân Đôn. Sau khi ký tên, anh nhờ người lính, cũng sắp chết bên cạnh, ký vào để làm chứng. Người lính cố gắng cầm bút ký vào tờ giấy theo lời yêu cầu, nhưng cây viết bị rơi ra khỏi tay trước khi người ấy có thể viết trọn tên mình! Vài phút sau cả hai người đều qua đời.

Chúng tôi cố gắng nói cho anh yên tâm rằng những người đem xác chết đi chôn sẽ tìm thấy chúc thư bên cạnh xác anh, và sẽ lo việc ấycho anh. Nhưng anh ta không an lòng, vì nhiều lý do. Thứ nhất, xác của anh ở một góc xa, có thể họ không tìm đến đó, sau khi trận chiếnrút lui. Thứ nhì, anh ta sợ rằng nước mưa sẽ làm mờ hết chữ viết trên tờ giấy vốn đã dính những vết máu. Thứ ba, cho dù nó được tìmthấy với chữ còn đọc được, nhưng do sự sơ suất người ta có thể gởi nó về quê quán của anh cho bà mẹ, thay vì gởi cho vị luật sư của anh. Anh rất hy vọng là đứa trẻ trong bụng người vợ đang mang thai sẽ là con trai, và nó sẽ được thừa hưởng gia tài hương quả của anh đểlại. Anh nghĩ rằng trong vài trường hợp đặc biệt, di chúc viết tay không có người chứng, có thể được chấp nhận.

Anh ta có một người bạn học cũ ở vùng gần đó, là hy vọng duy nhất có thể giúp được trong việc nầy. Chúng tôi tìm cách ảnh hưởng lêntrí não của người bạn nầy, nhưng sau nhiều lần đều bị thất bại. Chúng tôi đành phải dùng “chiêu thức” cũ, tức là làm cho một người cứutrợtrẻ trong nhóm hiện hình. Những khó khăn cuối cùng cũng được vượt qua, và người bạn cũ của anh được hướng dẫn tìm ra xác chết của anh. Chúc thư cũng được tìm thấy và được gởi đến cho vị luật sư. Như vậy sự mong muốn của chàng sĩ quan nầy được thực hiện, và tâm trí anh được yên ổn từ đây.

Vài trường hợp nhỏ nhặt

Những vị đoàn viên trẻ của chúng tôi chứng tỏ rất hữu ích khi làm việc ở cõi trần. Một lần kia, những người dân quê chạy trốn một cách hỗnloạn khi quân Đức xông vào những mái nhà tranh của họ để đốt phá. Những vị cứu trợ trẻ hướng dẫn họ chạy đến một hang nhỏ gần bờsông để ẩn núp, đợi đến khi quân Đức bỏ đi. Sau đó dân làng trở về và cố gắng dập tắt ngọn lửa đang còn cháy của một căn nhà, rồi họ tạmngủ qua đêm nơi ấy, và sáng sớm hôm sau họ di tản qua làng kế bên để tránh bọn cướp quay trở lại.

Vài ngày sau, Cyril cứu được hai mạng sống nữa, một trai và một gái. Chúng là người duy nhất còn sống sót trong làng, sau khi quân Đứcvào làng và giết hết mọi người, trong đó có nhiều trẻ em. Khi quân lính bỏ đi, chúng nó cố chạy trốn đi nơi khác. Trong lúc chúng đang lenlỏi giữa những căn nhà thì chiến trận tái diễn trở lại trong làng. Cyril tìm thấy chúng đang ẩn núp trong một chỗ trũng dưới đất, giữa lùm cây, những tiếng đạn pháo bay tới tấp không ngừng phía trên đầu của chúng nó. Núp dưới chỗ trũng ấy, chúng tránh khỏi lằn đạn, nhưng quânĐức vẫn còn ở trong đám rừng nhỏ kế bên có thể nhìn thấy và giết chúng. Sau cùng quân Đức bị đánh bật ra khỏi đám rừng. Quân đồngminh không chiếm giữ nơi đó, và trận chiến vẫn tiếp tục ở vùng chung quanh gần đó suốt ngày đêm, vì thế chúng không dám di động. Chúng bị ướt và lạnh, đến khi Cyril tìm thấy chúng thì chúng đã bị đói hai ngày rồi. Em bé trai cởi áo ra để đắp cho đứa em gái, mặc dù chínhnó cũng đang bị lạnh run, cả hai có vẻ rất yếu ớt.

Cyril hiện hình, hai em bé có vẻ sợ sệt, không biết tại sao Cyril lại đến đây, và chúng không hiểu Cyril nói gì. Vì thế Cyril phải hỏi người bạnlớn tuổi vài từ ngữ địa phương để làm cho chúng an lòng. Cyril truyền hơi ấm và sức mạnh cho em bé trai, kế đó nó tìm được trong ba lôcủamột binh sĩ đã chết một ít bánh mì và lạp xưởng đem lại cho chúng. Tuy bụng đói như cào, nhưng em bé trai cũng nhường cho em gái ăntrước. Cũng may! Có thêm một binh sĩ tử thương gần đó! Cho nên có đủ thực phẩm cho cả hai anh em. Sau khi chúng cảm thấy khỏetrởlại, Cyril dẫn chúng chạy. Nhưng cả bọn không biết hướng nào ít nguy hiểm. Cyril bay lên cao để thấy được trọn chiến trường và tínhtoán con đường an toàn để tẩu thoát. Cyril giúp đỡ, khuyến khích chúng gắng sức thêm, và cuối cùng đem chúng tới được vùng hậu phương của chiến tuyến. Nơi đây, nhóm quân sĩ người Pháp cho chúng thực phẩm và đưa chúng đến một bệnh viện dã chiến. Các cô y tá chămsóc, đắp ấm, và để chúng ngủ yên. Bây giờ hai em bé được an toàn, yên ổn trong sự săn sóc của những người tốt, trong khi tất cả những người thân của chúng đều bị chết trong chiến loạn.

Một trường hợp khác, xảy ra trên một chiếc cầu dài bắc qua sông. Một cô gái có ý định vượt qua cầu để lấy vài ổ bánh mì đem về cho mẹvàmấy em nhỏ đang bị đói. Đó là một ý định vội vàng nguy hiểm, vì trận chiến còn đang tiếp diễn quanh vùng. Cô gái đợi đến lúc “thuận tiện,” rồi bắt đầu chạy qua cầu. Nhưng cô vừa chạy tới giữa cầu thì một đám đông quân lính bị đánh bại, ồn ào, hỗn loạn chạy lên cầuvà phía sau họ là kẻ thù đang đuổi theo, ném những quả lựu đạn vào họ. Đám quân lính chạy tán loạn tìm đường sống, chen lấn, giẵm đạplên nhau, có người bị rơi xuống cầu. Cô bé vốn đã rất yếu đuối, vì đói, như bị tê liệt, vì quá sợ hãi, không còn lối nào để thoát thân. Cyril hiện hình và đưa cô ngang qua thành cầu, xuống phía dưới để cô núp giữa hai trụ cột chống đỡ chiếc cầu. Cô tạm nép mình ở đó một cáchtương đối an toàn, mặc dù vẫn còn run sợ. Đến khi cả hai nhóm quân lính rượt đuổi nhau đã qua khỏi chiếc cầu, cô leo lên trở lại và tiếptục công việc tìm thực phẩm cho mẹ và các em.

Gần đây Cyril khám phá ra một công việc rất hữu ích, đó là giúp cho những tàu thuyền tránh các thủy lôi, bằng cách ảnh hưởng lên trí nãocủa người lái tàu. Vì khi ở trong thể vía, em có thể nhận thấy các thủy lôi dưới nước một cách dễ dàng, và em đã thành công trong việc hướng dẫn một số tàu thuyền tránh khỏi những cạm bẫy. Trước hết, em thử nói cho tài công biết rằng có thủy lôi trên đường tàu chạy. Nhưng thường thì không dễ dàng gây ấn tượng vào trí hắn. Cho nên nhiều lúc em phải làm cho hắn bị lạc tay lái trong vài phút, đủ để vượt quakhỏi chướng ngại. Khi tài công sực tỉnh lại, thường anh ta hốt hoảng khi thấy chiếc tàu chạy lệch hướng, anh ta lật đật bẻ bánh lái lại chođúng, hy vọng rằng không ai thấy anh “ngủ gật” làm lệch lối đi. Có trường hợp, vị thuyền trưởng thấy hướng đi bị lệch, ông rầy la người tài công, làm cho anh ta vô cùng bối rối và đổi hướng trở lại, nhưng may mắn là chiếc tàu đã vượt qua vùng nguy hiểm.

Muốn đạt được kết quả, nhiều lúc cũng không phải dễ dàng, vì không dễ gì làm lạc hướng một hoa tiêu có kinh nghiệm. Trong một trường hợp, em không thể làm cho người tài công thay đổi hướng đi trong lúc sự nguy hiểm cận kề, một bàn tay của Cyril hiện hình, kéo taylái cho chiếc tàu tránh sang một bên. Khi thấy bàn tay, người tài công quá sợ hãi, mất bình tĩnh, bỏ chạy và la lên. Lợi dụng lúc ấy, Cyril lái chiếc tàu tránh khỏi thủy lôi. Khi vị thuyền trưởng chạy đến phòng lái để kiểm soát thì lúc đó chiếc tàu đã vượt qua khỏi vùng nguy hiểm. Những người trên tàu bàn tán rằng, có lẽ anh tài công say rượu hoặc đang mơ màng gì đó, và hắn trở thành cái bia để mọi người chế giễu. Nhưng hắn vẫn một mực nói rằng, có một bàn tay trắng xóa đã kéo tay lái và đã làm cho chiếc tàu chạy lệch hướng. Đối với những thủy thủcólòng tin về những hiện tượng siêu nhiên thì đây là một câu chuyện ma khá hấp dẫn.

Bé Ethan

Sau đây là câu chuyện của bé Ethan, cha của em đã bị chết vào những ngày đầu của cuộc chiến. Mẹ của em đã qua đời lúc em còn rất nhỏ, và cha của em phải chịu cảnh “gà trống nuôi con,” hai cha con rất thương yêu, khắng khít nhau. Ethan rất ngưỡng mộ người cha caolớn, khỏe mạnh, nhưng cư xử rất mềm mỏng với con. Em bé luôn hiểu được những gì cha em dạy bảo, và hai người thường bàn luận với nhau nhiều đề tài, mà thường những đề tài ấy không được đem ra nói với trẻ em khoảng tám tuổi. Hai cha con rất thông cảm lẫn nhau, vàhọbiết tâm ý của nhau, mà không cần dùng ngôn ngữ. Khi người cha phải gia nhập vào quân đội, ông giao Ethan lại cho người anh họ chămsóc, đây là một người đàn ông vui tính có giọng nói to. Gia đình mới nầy rất đông người, ồn ào, nhưng họ đối xử với Ethan rất tốt, tuy họ không hiểu được chiều sâu tâm hồn của em. Khi cha em bị chết, có để lại của cải đủ cho em khỏi thiếu thốn về vật chất. Những người trongnhà rất xúc động và thương tiếc về cái chết của cha em. Họ lo lắng cho em rất chu đáo, họ làm bất cứ điều gì để an ủi em. Ethan hoàntoàn hiểu và biết ơn lòng tốt của những người trong nhà, nhưng những điều ấy không làm nguôi được lòng thương nhớ cha từng giờ từngphút, và không có gì có thể thay thế được người cha thân yêu. Em chết dần mòn với sự nhớ nhung, và những người trong nhà không biết làmcách nào để khuyên giải.

Trong thời gian nầy, người cha rất lo lắng và lẩn quẩn bên Ethan. Mỗi đêm, khi Ethan rời khỏi xác thân, họ lại gặp nhau và cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc như xưa. Nhưng khi thức dậy vào buổi sáng, Ethan không nhớ được gì xảy ra trong giấc ngủ, mặc dù nó có cảm giác mơ mànglà đã trải qua những giờ phút đẹp đẽ, vui tươi trong giấc mộng. Vì thế vào mỗi buổi sáng, nó có được một lúc vui vẻ, nhưng sau đó, cảmgiác chán nản, trống rỗng và buồn bã lại đến.

Lúc đầu, Cyril chú ý đến câu chuyện, muốn giúp đỡ người cha, nhưng sau đó nó cảm thấy thương xót bé Ethan, và quyết định làm mọi cáchđể cứu em khỏi chứng ưu sầu đang bào mòn cuộc sống của em. Điều hiển nhiên là cần phải giúp cho em nhớ lại được những sự việc xảyratrong đêm, khi em tách ra khỏi xác thân. Nhưng tất cả những cố gắng đều không thành công, vì Ethan không có chút ý niệm nào về vấnđề nầy, cho nên trí óc của em bị khép kín đối với khả năng ấy.

Nơi cõi trung giới, Cyril được sự tín nhiệm của em bé Ethan rụt rè nầy, và họ trở nên bạn tốt. Nhưng tất cả những chỉ dẫn của Cyril để bùđắp chỗ khiếm khuyết của Ethan hình như hoàn toàn thất bại, Cyril phải buộc lòng dùng lại “chiêu thức” cuối cùng. Một buổi sáng, khi Ethanthức dậy, em vừa mở mắt ra thì thấy Cyril đang đứng bên cạnh giường, Cyril mỉm cười và nói:

– Bây giờ bạn biết rõ tôi là ai rồi, phải không? Bạn có nhớ lúc nãy tôi đứng một bên nắm tay bạn, trong khi cha của bạn nắm bàn tay kia củabạn?

– Đúng rồi! đúng rồi!

Ethan la lên một cách thích thú.

– Nhưng bây giờ cha tôi đâu rồi?

– Ông vẫn còn nắm tay bạn, nhưng bạn không thể thấy được ông ấy. Tôi chỉ có thể làm cho bạn thấy được tôi trong một lúc ngắn ngủi, vàtuy tôi không thể làm cho bạn nhìn thấy được cha, nhưng tôi có thể làm cho bạn cảm giác được bàn tay của ông.

– Tôi nhận thấy được rồi! -Ethan nói- Bàn tay thân yêu của cha tôi, đặc biệt nhất trên thế gian.

Sau kinh nghiệm nầy, Ethan có thể nhớ lại tất cả những gì mà cha nó đã nói trong đêm đó.

Sáng sớm hôm sau, chỉ cần hai bàn tay của Ethan được siết chặt, một bên bởi bàn tay bé nhỏ của Cyril, một bên bởi bàn tay to lớn củacha em, là em có thể nhớ lại được những sự việc xảy ra trong đêm, mà Cyril không cần phải hiện hình nữa. Từ đó Ethan có thể nhớ càngngày càng nhiều những sinh hoạt của thể vía trong đêm, và Cyril dẫn giải giáo lý Minh Triết Thiêng Liêng cho cả hai cha con.

Ethan rất hạnh phúc và thân thể mạnh khỏe, tươi tắn trở lại. Người trong nhà không hiểu vì sao nó được bình phục, cũng như họ đã khônghiểu về chứng bệnh u-uất của nó, mà Ethan cũng không thể nào giải thích cho họ hiểu được.

***

Tổng hợp sách trong Thư viện trái đất 

Facebook page

ĐỂ LẠI NHẬN XÉT

Please enter your comment!
Please enter your name here