NHÃN THÔNG – CHƯƠNG 4: NHÃN THÔNG TRONG KHÔNG GIAN – CÓ CHỦ TÂM

0
120

CHƯƠNG IV

NHÃN THÔNG TRONG KHÔNG GIAN – CÓ CHỦ TÂM

(Clairvoyance Clairvoyance Clairvoyance Clairvoyance in Space – Intentional) Intentional) Intentional) Intentional)

Đây là khả năng nhìn thấy những cảnh tượng hay biến cố xảy ra trong không gian, ở một khoảng cách rất xa, mà mắt thường không thể nhận thấy. Có rất nhiều trường hợp khác nhau thuộc loại này, mà chúng ta cần phân loại chúng tỉ mỉ hơn. Cách thức sắp xếp không quan trọng lắm, miễn là có thể bao gồm tất cả các trường hợp, một phương pháp có lẽ tiện lợi là phân loại chúng thành 2 nhóm lớn: nhãn thông trong không gian, có chủ tâm; và nhãn thông trong không gian không chủ tâm; và một nhóm trung gian có thể được diễn tả như là chỉ có một phần chủ tâm (semi – intentional), một tên gọi hơi lạ, mà tôi sẽ giải thích sau.

Trước hết, tôi xin đề cập đến những gì có thể xảy ra đối với nhà linh thị được huấn luyện đầy đủ, cũng như cố gắng giải thích quan năng của họ tác động như thế nào và có những giới hạn nào. Từ đó, chúng ta sẽ hiểu dễ dàng hơn về những trường hợp thị giác từng phần và chưa được huấn luyện. Trước hết chúng ta hãy thảo luận về loại nhãn thông có chủ tâm này.

Như trước đây đã nói, người nào sở hữu hoàn toàn năng lực thị giác cõi trung giới sẽ có thể thấy được bất cứ vật gì ở cõi trung giới nếu họ muốn. Những nơi bí mật nhất sẽ phơi bày dưới nhãn quan của họ, đối với họ không có sự ngăn cản của vật chất, và dĩ nhiên quan điểm của họ sẽ hoàn toàn thay đổi. Nếu họ có năng lực di chuyển bằng thể vía, họ có thể dễ dàng đi bất cứ nơi nào và thấy bất cứ vật gì trong giới hạn của bầu hành tinh này. Thật ra như chúng ta biết, dù không cần vận dụng thể vía, khả năng nhận thấy của họ rất rộng rãi.

Chúng ta hãy khảo sát kỹ hơn những phương pháp mà loại thị giác siêu hình này có thể được sử dụng để quan sát những biến cố xảy ra ở cách xa. Thí dụ, làm thế nào mà một người ở nước Anh thấy rõ từng chi tiết một điều gì xảy ra cùng lúc ấy ở Ấn hay ở Mỹ?

Có một giả thuyết rất đáng tin cậy giúp chúng ta giải thích hiện tượng này. Người ta gợi ý rằng, mỗi vật thể đều liên tục phát ra các bức xạ (radiations) đi khắp mọi hướng, tương tự như các tia sáng nhưng vô cùng mịn màng hơn, mà người có khả năng nhãn thông có thể nhận thấy được. Trong trường hợp này, khoảng cách không còn là trở ngại, các tia bức xạ có thể xuyên thấu tất cả mọi vật ngăn cản, và những tia này có thể gặp nhau ở vô cực theo mọi chiều hướng mà không vướng mắc nhau, giống như sự rung động bình thường của ánh sáng.

Mặc dù nhãn thông không tác động hoàn toàn giống hệt như thế, tuy nhiên lý thuyết này hoàn toàn chính xác trong nhiều trường hợp. Chắc chắn mọi vật đều phóng các bức xạ ra khắp mọi hướng như đã nói trên; trừ trường hợp ở cõi cao hơn, nơi đó tiên thiên ký ảnh (akasic records) được tạo ra. Phương pháp đo lường hoạt động tinh thần cũng tuỳ thuộc vào các bức xạ này như vừa được giải thích.

Tuy nhiên, trên thực tế có vài khó khăn khi áp dụng đối với những rung động của chất dĩ thái, chất này tác dụng như là phương tiện trung gian để một người có thể thấy bất cứ sự vật gì ở nơi xa. Vì những vật ngăn cách không hoàn toàn trong suốt, và những sự vật được quan sát có độ trong suốt tương đương với vật ngăn cách, do đó kết quả đạt được có thể bị nhiều lầm lẫn.

Nếu các bức xạ thể vía thay vì thể phách được cảm nhận, sẽ có thêm một chiều đo nữa (additional dimension). Khi ấy có thể tránh được vài điều khó khăn, nhưng mặt khác sẽ đem lại vài điều phức tạp mới. Vì mục đích thực dụng trong sự cố gắng tìm hiểu nhãn thông, chúng ta không cần để ý đến giả thuyết bức xạ này, mà chỉ xét đến những phương pháp thực tế được sử dụng để nhìn thấy từ khoảng cách xa. Có năm phương pháp, trong số đó có bốn phương pháp thực sự có liên hệ đến những loại nhãn thông khác nhau, còn phương pháp thứ năm đúng ra không thuộc khả năng nhãn thông, mà thuộc về lãnh vực ma thuật. Trước hết, chúng ta hãy nói sơ đến phương pháp sau cùng để loại ra.

  1. Nhờ sự trợ giúp của tinh linh thiên nhiên (nature spirit):

Trong phương pháp này, người thực hành không cần có bất cứ khả năng tâm linh nào, họ chỉ cần biết cách sai khiến một vài thực thể cư ngụ ở cõi trung giới, để dò tìm cho họ. Họ có thể dùng sự cầu đảo hay triệu thỉnh để thuyết phục sự trợ giúp của những thực thể phụ tá ở cõi trung giới; hoặc nhờ ý chí phát triển cao độ, họ có thể cưỡng bách thực thể phụ tá phải trợ giúp họ.

Phương pháp này được áp dụng nhiều ở Đông phương, nơi đó người ta thường sử dụng tinh linh thiên nhiên; và ở cựu lục địa Đại Tây Dương Châu (Atlantis), nơi đó, các vị “lãnh chúa hắc đạo” sử dụng loại tinh linh nhân tạo rất chuyên biệt và độc ác dị thường. Đôi khi người ta thu thập những dữ kiện bằng cách cầu hồn như hiện nay, nhưng trong trường hợp này, người ta sử dụng một người vừa mới chết, sinh hoạt được tự do chút ít ở cõi trung giới để mang thông điệp; trong trường hợp này, đôi khi cũng có một tinh linh thiên nhiên tự mạo nhận người thân đã chết để đùa nghịch, phá phách. Như tôi đã nói, phương pháp này hoàn toàn không phải là nhãn thông mà là ma thuật, vấn đề này được đề cập ở đây chỉ với mục đích để bạn đọc khỏi bối rối khi cố gắng phân loại nhãn thông thuộc về những đề mục sau.

  1. Cách dùng một luồng sóng cõi trung giới:

Trong vài tác phẩm Thông Thiên Học, một số hiện tượng loại này được trình bày một cách sơ sài, chung với những hiện tượng khác. Điều chính yếu của phương pháp này là tạo ra một luồng sóng rung động trong chất liệu cõi trung giới, giống như thiết đặt một đường dây điện thoại tạm thời xuyên qua đó.

Nơi đây, chúng ta không thể khảo cứu tường tận về tính chất vật lý cõi trung giới, mặc dù tôi có đủ kiến thức để viết về nó. Tôi chỉ cần nói đại khái là, người ta có thể tạo ra một con đường kết nối xác định bằng chất liệu cõi trung giới; đường kết nối này sẽ hoạt động như một đường dây điện tín để chuyển các làn rung động, do đó họ sẽ nhận thấy được những gì ở đầu dây kia. Cũng nên hiểu, đường nối kết được thiết đặt không phải do sự phóng trực tiếp xuyên qua không gian của chất liệu cõi trung giới, mà do sự tác động trên một đường (hoặc nhiều đường) bằng các phân tử chất liệu cõi đó, tạo thành một đường có tính chất đặc biệt để dẫn truyền những rung động.

Tác động sơ khởi này có thể thiết lập bằng hai cách: hoặc do sự truyền dẫn năng lượng từ phần tử này đến phần tử kia đến khi đường nối kết được hình thành; hoặc do sự sử dụng một lực từ cõi cao hơn, có thể tác động cùng lúc trên toàn bộ đường nối kết. Dĩ nhiên, chỉ những người đã phát triển đến cấp độ cao mới có thể sử dụng phương pháp thứ nhì, vì cần sự hiểu biết và năng lực sử dụng những lực ở một mức độ khá cao. Khi một người có khả năng tạo cho họ một đường nối kết bằng cách này, dĩ nhiên họ không cần đường nối kết ấy nữa, vì họ có thể thấy rất dễ dàng và hoàn toàn bằng một quan năng cao hơn.

Những hoạt động đơn giản ở cõi trung giới tuy dễ dàng thực hiện nhưng khó diễn tả. Thanh thép cũng có bản chất từ trường, con người với năng lực ý chí có thể tạo ra sự phân cực những nguyên tử trên một số lộ trình song song ở cõi trung giới, đi từ người quan sát đến cảnh tượng mà họ muốn thấy. Tất cả những nguyên tử bị tác động được giữ lại trong một lúc theo các trục song song nhau và tạo thành một loại ống dẫn tạm thời, mà người có thông nhãn có thể dựa theo đó để nhìn. Phương thức này có điều bất lợi là con đường kết nối có thể bị xáo trộn hay bị phá huỷ bởi bất cứ dòng lưu chuyển nào tương đối mạnh ở cõi trung giới, tình cờ băng ngang qua đường đi của nó, nhưng nếu người quan sát có ý chí vững chắc, sự tình cờ này ít khi xảy ra.

Quang cảnh ở xa được nhìn theo “dòng lưu chuyển cõi trung giới” này, rất khác với sự nhìn xuyên qua một kính viễn vọng. Hình ảnh con người thường xuất hiện rất nhỏ, giống như khi nhìn bằng mắt đến một chỗ thật xa; mặc dù kích thước thật nhỏ, nhưng đường nét vẫn rõ ràng như ở gần. Đôi khi với phương pháp này, người ta có thể nghe những lời nói, nhưng trong đa số trường hợp, sự kiện này ít xảy ra, đó là sự biểu lộ của một năng lực bổ sung vào quan năng thị giác.

Trong trường hợp này, nhà linh thị thường không rời khỏi thể xác của họ; đây không phải là xuất vía hay xuất bất cứ thành phần nào của họ đến nơi được quan sát, mà họ chỉ tạo nên một “kính viễn vọng” tạm thời bằng chất liệu trung giới. Do đó, trong lúc đang quan sát quang cảnh ở xa, thể xác của họ vẫn có thể sinh hoạt đến một mức độ nào đó, thường họ vẫn còn kiểm soát được tiếng nói của họ, và có thể diễn tả những gì mà họ thấy trong khi đang quan sát. Như thế, tâm thức của người đó thực sự vẫn ở tại đây.

Điều này có những lợi điểm mà cũng có những giới hạn, giống như những giới hạn của một người sử dụng viễn vọng kính tại cõi trần. Người làm thí nghiệm không thể thay đổi tiêu điểm nhìn, không thể nới rộng hay thay đổi tầm nhìn, họ nhìn cảnh vật từ một hướng nào đó, và không thể thình lình xoay quanh để nhìn phía bên kia của vật ấy. Nếu họ có dư thừa năng lượng tâm linh, họ có thể vứt bỏ viễn vọng kính mà họ đang sử dụng, và tạo ra một cái hoàn toàn mới để nhìn cảnh vật theo hướng khác, nhưng điều này không phải dễ thực hiện.

Có thể nói là muốn nhìn thấy cùng lúc mọi phía của một vật, người ta phải sử dụng thị giác thể vía, với điều kiện vật đó tương đối gần, trong tầm nhìn của thị giác thể vía; nhưng nếu vật được quan sát ở một khoảng cách rất xa, hàng trăm hay hàng ngàn dặm là trường hợp rất khác. Điều thuận lợi của thị giác thể vía là thấy được thêm chiều đo thứ tư, nhưng dĩ nhiên vấn đề vị trí của vật được quan sát là một yếu tố quan trọng làm giới hạn năng lực thị giác ở cõi trung giới. Thị giác của thể xác chỉ nhìn được ba chiều đo, cho phép chúng ta thấy cùng lúc mỗi điểm bên trong một hình có hai chiều đo, như một hình vuông ở trong một khoảng cách vừa tầm mắt chúng ta, nhưng khi khảo sát một hình vuông ở nơi xa thì lợi điểm đó sẽ không còn nữa.

Về phương diện thực hành, thị giác cõi trung giới bị giới hạn rất nhiều do phải định hướng dọc theo một ống dẫn, giống như thị giác thể xác trong những điều kiện tương tự. Nếu một người có được năng lực thị giác cõi trung giới hoàn hảo, họ sẽ thấy được hào quang của những đối tượng ở khoảng cách khá xa, cho nên họ có thể biết được tất cả tình cảm và rất nhiều tư tưởng của đối tượng.

Loại nhãn thông này rất thuận tiện đối với nhiều người, nếu họ có trong tay một vật thể vật chất có thể dùng làm điểm khởi đầu cho ống dẫn thể vía, và tạo một tiêu điểm thích nghi cho năng lực ý chí. Vì vậy, việc dùng một quả cầu thuỷ tinh là một điều thông thường nhất và rất có hiệu quả, vì chính nó có thêm sự tiện lợi là đặc tính kích thích khả năng tâm linh. Nhưng có nhiều vật khác cũng được người ta sử dụng; chúng ta sẽ đề cập kỹ hơn, khi khảo sát loại nhãn thông có một phần chủ đích.

Một số nhà tâm linh không thể sử dụng loại nhãn thông có dòng lưu chuyển cõi trung giới, cũng như vài loại nhãn thông khác, ngoại trừ họ được đặt dưới ảnh hưởng của thuật thôi miên. Người ta có thể chia các nhà tâm linh này theo hai loại khác nhau: một số nhà tâm linh sau khi được thôi miên, có thể tự tạo một “viễn vọng kính” cho họ; một số khác, chính người thôi miên tạo ra một “viễn vọng kính” để cho nhà tâm linh có thể nhìn xuyên qua nó. Chúng ta thấy rõ trong trường hợp thứ hai, nhà tâm linh chưa đủ ý chí để tự tạo một ống dẫn cho riêng mình, trái lại người thực hiện việc thôi miên sở hữu năng lực ý chí cần thiết, nhưng họ chưa có nhãn thông, nên không thể nhìn xuyên qua ống dẫn của chính họ tạo ra, vì vậy họ cần có sự trợ giúp của nhà tâm linh.

Đôi khi, mặc dù rất hiếm, ống dẫn được tạo ra có một đặc tính phụ của viễn vọng kính, là phóng đại các cảnh vật mà nó nhắm đến, lớn bằng kích thước thật. Dĩ nhiên, những đồ vật luôn luôn được phóng đại đến một độ lớn nào đó, nếu không, khó có thể thấy được; độ phóng đại này tùy thuộc kích thước của ống dẫn cõi trung giới, và toàn cảnh vật được thấy như một bức hình nhỏ di động. Trong một ít trường hợp, nhờ phương pháp phóng đại mà các hình được thấy với một độ lớn thực sự, có lẽ do sự tham dự của một năng lực mới, nhưng khi điều này xảy ra, cần phải quan sát cẩn thận để phân biệt chúng với các trường hợp của loại nhãn thông kế tiếp.

  1. Cách phóng một hình tư tưởng:

Nhà linh thị sử dụng được phương pháp này có trình độ phát triển hơn những nhà linh thị thuộc loại trước, vì họ cần phải kiểm soát được một phần nào cõi thượng giới. Tất cả học giả Thông Thiên Học nên lưu ý, khi tư tưởng biểu lộ thành hình thể ở cõi riêng của nó, trong nhiều trường hợp cũng biểu lộ ở cõi trung giới. Nói chung là như vậy, nhưng nếu một người suy nghĩ một cách mạnh mẽ về sự hiện diện của họ ở một nơi nào đó, tư tưởng đặc biệt đó tạo nên một hình dáng giống như chính nhà tư tưởng, và hình dáng đó sẽ xuất hiện ở nơi mà người ấy nghĩ tới.

Hình dáng này cốt yếu được cấu tạo bằng chất liệu cõi trí, nhưng có rất nhiều trường hợp nó cũng thu hút chung quanh nó chất liệu cõi trung giới, và nó dễ được nhìn thấy hơn. Có nhiều trường hợp người phát ra tư tưởng có thể nhìn thấy hình dáng tư tưởng của họ, những trường hợp này thường là do ảnh hưởng của sự thôi miên, và trong hình tư tưởng không chứa đựng tâm thức nào của người phát ra tư tưởng. Khi hình tư tưởng được phát ra, nó thường trở thành một thực thể hoàn toàn tách biệt về phương diện tiếp nhận những ấn tượng, tuy vẫn có sự liên hệ nào đó đến người tạo ra nó.

Loại nhãn thông thứ ba này là năng lực duy trì nhiều liên hệ với hình tư tưởng mới vừa hình thành, để có thể tiếp nhận những ấn tượng từ nó. Trong trường hợp này, những ấn tượng được tạo nên trong hình tư tưởng sẽ được truyền đạt đến người đã tạo ra hình tư tưởng đó do những làn rung động đồng cảm, chớ không phải theo một đường “dây điện tín” bằng chất liệu trung giới như loại nhãn thông trước. Trong trường hợp loại nhãn thông này được thực hiện hoàn hảo, nhà linh thị phát ra một phần tâm thức của họ vào hình tư tưởng, và dùng nó như là một tiền đồn, từ đó họ có thể quan sát. Khi ấy họ thấy khá rõ ràng, như chính họ đang ở tại nơi hình tư tưởng do họ phát ra.

Hình ảnh mà họ thấy có kích thước giống như thật và gần trong tầm tay, thay vì nhỏ và xa, hơn nữa họ có thể thay đổi tầm nhìn nếu muốn. Có lẽ nhĩ thông ít khi phối hợp với loại nhãn thông này hơn là với loại nhãn thông được đề cập ở phần trước, nhưng loại nhãn thông này cho nhà linh cảm nhận biết phần nào về tinh thần và chủ tâm của người được quan sát.

Vì tâm thức con người vẫn còn ở trong thể xác (ngay khi họ đang sử dụng khả năng nhãn thông này), họ có thể nghe và nói như lúc bình thường mà sự chú ý của họ không bị rối loạn. Lúc không còn giữ được sự tập trung cao độ của tư tưởng nữa, toàn thể cảnh tượng biến mất đi, họ phải tạo lại một hình tư tưởng mới, trước khi có thể thấy lại được. Rất ít người chưa được huấn luyện kỹ có thể đạt đến mức độ hoàn hảo của loại nhãn thông này, vì muốn đạt được loại nhãn thông này, con người cần phải có khả năng kiểm soát thể trí, và các lực được dùng phải có bản chất thanh nhẹ hơn.

  1. Cách đi bằng thể vía:

Chúng ta hãy đề cập đến loại nhãn thông hoàn toàn mới. Ở loại nhãn thông này tâm thức của nhà linh thị không còn duy trì trong thể xác hay tiếp xúc chặt chẽ với thể xác, mà được chuyển hoàn toàn đến cảnh tượng được quan sát. Đối với nhà linh thị chưa được huấn luyện kỹ, phương pháp này mang lại nhiều nguy hiểm nghiêm trọng hơn các phương pháp đã được mô tả trước, và không thích hợp cho họ; phương pháp này chỉ dành cho các nghiên cứu sinh đã được huấn luyện đặc biệt, chúng ta sẽ khảo sát trong đề mục thứ năm.

Khi sử dụng loại nhãn thông này, thể xác con người ở trong trạng thái ngủ hay xuất thần, vì vậy các cơ quan thể xác không còn sẵn sàng để sử dụng. Do đó những gì được thấy và những nghi vấn đặc biệt liên quan đến cảnh tượng được quan sát, phải đợi lúc người ấy quay trở về cõi trần mới biết được. Về phương diện khác, thị giác này được đầy đủ và hoàn hảo hơn: người ấy cũng nghe rõ như thấy mọi vật trải qua trước mắt, và họ có thể di chuyển một cách tự do theo ý muốn trong một giới hạn rộng lớn trên cõi trung giới. Nếu thích, họ có thể quan sát và nghiên cứu tất cả những cư dân khác ở cõi đó, gồm một thế giới rộng lớn của các tinh linh thiên nhiên (thế giới thần tiên theo truyền thuyết chỉ là một phần nhỏ của nó), ngoài ra cũng có một vài hạng thiên thần bậc thấp.

Họ cũng có nhiều cơ hội tham dự vào những cảnh tượng diễn ra trước mắt, và có thể trò chuyện với nhiều thực thể khác nhau trên cõi trung giới; do sự thích thú và hiếu kỳ, họ có thể biết được nhiều điều ở cõi trung giới. Nếu họ có thể học thêm phương pháp tự hiện hình, họ có thể tham dự vào các biến cố ở cõi trần, hoặc trò chuyện với những người ở cách xa, cũng như hiện hình cho một người bạn ở xa thấy được.

Trên phương diện thực hành, họ chỉ có thể tìm thấy một người hay một nơi mà họ đã từng biết, hoặc phải tạo ra mối liên hệ với người hoặc nơi đó bằng cách chạm vào vài đồ vật có liên hệ với người hoặc nơi đó, giống như đồ vật được dùng trong phép đo hoạt động tâmlinh. Nhờ cách sử dụng thể vía, một người có thể hoàn toàn di chuyển tự do và nhanh chóng theo bất cứ hướng nào, và có thểtìmthấy dễ dàng bất cứ nơi nào được chỉ trên bản đồ, mà không cần biết trước nơi ấy hay bất cứ vật gì liên hệ với nơi ấy. Họ cũng có thể bay lên cao trong không gian để có được tầm nhìn của loài chim về nơi mà họ đang khảo sát; nhờ thế họ có thể thấy một khoảng cách khá xa, hoặc một khoảng rộng theo đường viền bờ biển, và đặc tính tổng quát của vùng đó. Khi sử dụng phương pháp này, họ có năng lực và tự do rộng rãi hơn những phương pháp trước.

Một thí dụ về năng lực này là câu chuyện của bà Crowe được ghi trong quyển “Thiên nhiên trong đêm tối”, trang 127, của nhà vănngười Đức, ông Jung Stilling. Câu chuyện kể về một nhà linh thị cư ngụ vùng ngoại ô Philadelphia thuộc Hoa Kỳ. Ông có thói quen đi ngủ sớm và ít nói chuyện; ông là người nghiêm nghị, có lòng từ thiện và ngoan đạo; bản tính của ông không thể chê trách được, ngoại trừ việc ông nổi tiếng là người bí ẩn. Có nhiều câu chuyện kỳ lạ kể về ông, trong số đó có câu chuyện như sau:

‘Vợ của một vị thuyền trưởng rất lo âu về sự an toàn của chồng (vì chồng bà đang du lịch Âu Châu và Phi Châu, đã lâu bà không được tin tức). Bà bị thôi thúc phải tìm đến nhà linh thị để giải bày. Khi nghe câu chuyện, nhà linh thị yêu cầu bà hãy cho ông ít thì giờ đểtìmra tin tức bà cần. Kế đó, ông vào căn phòng bên trong, còn bà ngồi chờ ở ngoài. Vì chờ quá lâu, bà mất kiên nhẫn, nghĩ rằng ông đã quên bà, nên bà nhẹ bước đến gần cửa phòng và nhìn qua khe cửa; bà ngạc nhiên thấy ông nằm trên một cái ghế trường kỷ, bất động như người chết. Dĩ nhiên, bà không nghĩ đến việc làm phiền ông, nên phải đợi đến lúc ông thức dậy. Sau cùng ông bước ra vànói với bà những lý do làm cho chồng bà không thể viết thư cho bà; lúc ấy chồng bà đang ở tại một quán cà phê bên Luân Đôn, và sẽtrở về nhà trong một thời gian ngắn.’

‘Khi vị thuyền trưởng trở về, kể lại cho vợ nghe về những trở ngại làm ông không thể liên lạc được; những điều ông kể rất giống nhưnhững điều mà bà nghe được từ nhà linh thị, nên bà tin rằng chồng bà nói hoàn toàn sự thật, điều này làm bà rất thỏa mãn. Chồng bà còn kể lại rằng, ông đã gặp một vị thuật sĩ tại một quán cà phê ở Luân Đôn, vị này đã nói với ông rằng người vợ của ông rất sốt ruột nghĩ đến ông, để trả lời, ông (tức người thuyền trưởng) đã trình bày lý do không thể liên lạc được với vợ, và thêm rằng vào chiều ngày hôm ấy ông sẽ xuống tàu trở về Mỹ. Tiếp theo, ông nói vị thuật sĩ lạ này đã biến mất trong đám đông, và ông cũng không biết gì thêm về vị này.’

Chúng ta không thể biết được ông Jung Stilling có bằng chứng trung thực nào về câu chuyện này, mặc dù ông nói ông rất hài lòng về tính chất xác thực của câu chuyện; vả lại, có nhiều sự việc tương tự xảy ra làm chúng ta không có lý do để hoài nghi tính xác thực của câu chuyện. Nhà linh thị có thể khai mở quan năng một cách tự nhiên, hay học cách khai mở được chỉ dẫn trong một vài trường phái khác nhau. Những chỉ dẫn để khai mở này không được trình bày trong các bài vở Thông Thiên Học, vì có qui định không chonhững nghiên cứu sinh Thông Thiên Học phô diễn những hiện tượng như thế.

Tôi đã diễn tả một vài trường hợp tương tự các trường hợp trên trong quyển sách nhỏ có tựa là “Những vị cứu trợ vô hình”. Tôi biết rất rõ một người phụ nữ thường xuất hiện trước bạn bè ở một nơi xa, đã được ông Stead kể trong quyển “Những chuyện ma có thực” (trang 27). Trong quyển “Những giấc mơ và những hồn ma” (trang 89), ông Andrew Lang có kể một câu chuyện về ông Cleave ở Portsmouth, hai lần xuất hiện một cách cố ý ở Luân Đôn để báo nguy cho một phụ nữ trẻ. Đó là những bằng chứng mà bất cứ người nào muốn hiểu biết thêm vấn đề cũng có thể nghiên cứu một cách nghiêm chỉnh.

Người bình thường không thể xuất vía theo ý muốn được, nhưng thể vía của họ xuất ra rất dễ dàng khi họ sắp chết; lúc đó các thểkhông còn thu hút lẫn nhau một cách chặt chẽ nữa. Tôi xin trích dẫn câu chuyện rất xác thực trong quyển sách của ông Andrew Lang như sau:

‘Bà Mary, vợ ông John Goffe ở Rochester, lo âu về căn bệnh trầm kha của mình, nên di chuyển về nhà của cha bà ở West Malling, cách nhà bà khoảng 9 dặm.’

‘Ngày trước khi lìa trần, trong lòng bà rất bồn chồn mong muốn gặp hai con mà bà đã để chúng lại nhà cho người vú nuôi săn sóc. Bà quá yếu không thể di chuyển được; khoảng một giờ rưỡi khuya bỗng nhiên bà xuất thần. Bà goá phụ Turner canh chừng bà trong đêm, nói rằng lúc đó mắt bà Mary mở và đứng tròng, miệng há ra. Bà Turner để tay trước mũi bà Mary và nhận thấy không có hơi thở, nhưng không xác định được đã chết hay còn sống.’

‘Sáng hôm sau, người phụ nữ hấp hối thuật lại cho mẹ bà biết, bà đã về thăm các con, bà nói: “Đêm qua, tôi đã ở với chúng, khi tôi còn ngủ.”

‘Người vú nuôi của hai đứa bé ở Rochester, là goá phụ Alexander, quả quyết rằng khoảng trước hai giờ sáng hôm đó, bà thấy rõ hình dáng của bà Mary Goffe bước ra khỏi phòng kế bên (nơi mà đứa con lớn đang nằm ngủ một mình), cửa phòng vẫn để mở, và bà Mary đến đứng khoảng 15 phút bên cạnh giường bà vú đang nằm với đứa con nhỏ của bà Mary. Bà vú mắt mở to, miệng há hốc nhưng không thốt được nên lời. Bà vú cho biết lúc ấy bà hoàn toàn tỉnh táo, bà ngồi dậy và nhìn chăm chú vào hình dáng đó. Lúc ấy, bànghe rõ đồng hồ đã điểm hai tiếng, một lúc sau bà nói: “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, bà là ai?” Liền sau đó, hình dáng bỏ đi và biến mất. Bà vú choàng chiếc áo khoác, đi theo hình dáng ấy, nhưng việc gì xảy ra nữa bà không thể nói được.’

‘ Sau đó bà vú rất sợ, không dám ở trong nhà, bà đi qua đi lại bên ngoài cho đến 6 giờ sáng. Khi các người hàng xóm đã thức, bàkể lại câu chuyện trên, họ cho rằng bà đã nằm mơ; bà quyết phủ nhận ý nghĩ đó, nhưng bà không thể thuyết phục mọi người tin tưởng, đến khi có tin tức kể lại câu chuyện xảy ra từ West Malling thì mọi người mới chấp nhận một vài điều có thực trong câu chuyện này.’

Một điều đáng ghi nhận trong câu chuyện này là người mẹ đã vượt qua giấc ngủ bình thường để bước vào trạng thái xuất thần thâmsâu, trước khi bà có thể đến thăm các con một cách có tri thức. Về vấn đề này, trong sách báo cũng có thuật lại nhiều câu chuyện tương tự.

Hai câu chuyện khác, cũng giống như trường hợp kể trên, được bác sĩ F.G.Lee ghi nhận: trong cả hai câu chuyện, người mẹ hấp hối đều có tâm trạng mong nhớ cuồng nhiệt muốn gặp các con, và đã đắm chìm vào giấc ngủ thật sâu, bà đã đến thăm các con vàkhi trở về bà kể lại những gì bà đã làm. Một bà mẹ ở Ai Cập trong lúc hấp hối, xuất hiện đến thăm các con bà ở Torquay, tất cả 5 đứa con và bà vú đều nhìn thấy rõ bà lúc ban ngày (quyển “Thoáng thấy điều phi thường”, quyển II, trang 64). Một bà người Quaker ở Cockermouth, khi hấp hối, ba đứa con của bà đang ở Settle cũng nhìn thấy bà rõ giữa ban ngày; phần còn lại trong câu chuyện đều giống câu chuyện kể trên (quyển “Thoáng thấy lúc chạng vạng”, trang 94). Các trường hợp này, ít được người biết hơn trường hợp bàMary Goffe, những bằng chứng được nhìn nhận gần như hoàn toàn xác thực, và được thuật lại bởi một tác giả đáng tin cậy.

Người sở hữu hoàn toàn khả năng nhãn thông loại này có nhiều thuận tiện khi sử dụng, khả năng này có thể bổ sung cho những loại nhãn thông trước. Họ có thể tham quan một cách dễ dàng tất cả những nơi nổi tiếng đẹp đẽ trên trái đất. Nếu họ là một học giả, họcó thể đến học hỏi ở tất cả các thư viện trên thế gian. Người có óc khoa học có thể thấy tại chỗ nhiều phương pháp chế biến hoá học huyền bí trong vũ trụ. Còn nhà triết học sẽ hiểu nhiều hơn những điều bí ẩn quan trọng về vấn đề sinh tử. Người nào đã bước vào cõi này sẽ không còn vướng bận về sự chết; đối với họ, nhiều ý niệm tôn giáo không còn là vấn đề đức tin mà là sự hiểu biết. Trên hết, họcó thể gia nhập vào lực lượng những người cứu trợ vô hình để thực hiện nhiều việc hữu ích. Dù bị giới hạn ở cõi trung giới, loại nhãn thông này có rất nhiều hữu ích cho các nghiên cứu sinh.

Chắc chắn loại nhãn thông này cũng có những nguy hiểm, nhất là đối với người chưa được huấn luyện. Nguy hiểm đến từ nhiều loại thực thể xấu ác, chúng có thể làm cho những người thiếu can đảm khiếp sợ hoặc bị tổn thương. Nguy hiểm vì bị phỉnh lừa bằng nhiều cách khác nhau, làm cho họ nhận thức và giải thích sai lạc điều gì mà họ thấy. Quan trọng nhất là nguy hiểm do lòng tự phụ, chorằng điều gì mà họ nghĩ không thể có sự sai lầm. Nhưng chỉ cần một ít hiểu biết thông thường và kinh nghiệm, người ấy có thể dễ dàng vượt qua những điều nguy hiểm này.

  1. Cách đi bằng thể trí:

Đây là một hình thức cao và kỳ diệu hơn loại nhãn thông thể vía. Vận cụ được dùng là thể trí, thuộc về cõi thượng giới, cho nên nócó tất cả những khả năng của loại giác quan phi thường trên cõi đó, tác động của nó rất tuyệt diệu, không thể diễn tả được. Một người linh hoạt trong thể trí, rời bỏ thể vía cùng thể xác lại phía sau; nếu họ muốn tự biểu hiện trên cõi trung giới vì bất cứ lý do gì, họ sẽkhông cần dùng thể vía của chính họ, mà chỉ cần sử dụng ý chí để hiện hình hầu hoàn thành nhu cầu tạm thời của họ. Đôi khi người ta gọi hình ảnh hiện ra ở cõi trung giới như thế là cảm dục thể (mayavi rupa), lần đầu tiên sử dụng cách thức này thường cần cósựtrợ giúp của một vị thầy nhiều kinh nghiệm.

Lợi điểm lớn của năng lực này là đem lại cho nghiên cứu sinh khả năng xâm nhập vào miền phúc lạc cao siêu tuyệt diệu. Giác quan thể trí của họ sẽ mở rộng và đạt được kiến thức kỳ diệu, từ đó họ có thể hiểu những điều không thể giải thích được trước kia. Tuy nhiên, nấc thang cao siêu này chỉ dành cho người được huấn luyện, vì chỉ sau khi được huấn luyện kỹ càng, người ấy mới có thể sửdụng thể trí như là một vận cụ.

Trước khi nghiên cứu đến loại nhãn thông khác, chúng ta nên đề cập đến những giới hạn của loại nhãn thông này. Câu hỏi thường được đặt ra là nhà linh thị có thể tìm thấy một người nào đó còn sống hay đã chết, ở bất cứ nơi nào trên thế giới không?

Câu giải đáp cho vấn đề này là tùy theo trường hợp. Thật vậy, người ta có thể tìm thấy một người nào đó bằng cách này hay cách khác, nếu có sự liên hệ với người ấy. Người ta sẽ không hy vọng khi lao mình vào một không gian không định hướng, để tìm được một người lạ trong số hàng triệu người chung quanh, nhưng nếu có một ít manh mối, điều này vẫn có thể thực hiện được.

Nếu người có nhãn thông biết được một điều gì đó về người mà họ tìm, họ sẽ tìm được người ấy một cách dễ dàng, vì mỗi người có những rung động như một hòa âm của riêng họ, diễn đạt toàn thể con người của họ, và tạo ra những tần số rung động trong tất cả những vận cụ khác nhau ở các cõi của chúng. Nếu quan sát viên nhận biết và đánh lên hợp âm đó, do sự thu hút của những rung động giao cảm, sẽ tức khắc thu hút sự chú ý của người đang ở bất cứ nơi đâu, và lôi kéo họ đáp ứng lại ngay.

Dù đang còn sống hay vừa mới chết, con người hoàn toàn không gì khác nhau, và loại nhãn thông thứ năm này có thể tức khắc tìmthấy họ trong vô số triệu người trên cõi thiên đàng, mặc dù trong trường hợp đó, chính người bị quan sát không ý thức rằng họ đang bị quan sát. Dĩ nhiên, nếu tâm thức của nhà linh thị không vượt qua khỏi cõi trung giới, họ sẽ không tìm thấy được người đang ở cõi thượng giới, nhưng ít nhất họ cũng có thể đoán rằng người được tìm kiếm đang ở cõi thượng giới, vì họ dựa vào sự kiện là hòa âmđược đánh ra từ cõi trung giới không tạo ra được sự đáp ứng.

Nếu người được tìm là người xa lạ, thì người đi tìm cần phải có một vài sự vật làm manh mối kết nối như một bức ảnh, một bức thưđược người ấy viết ra, hay một đồ dùng đã thấm nhuần từ điển cá nhân của họ; những thứ này trợ giúp rất hữu hiệu cho nhà linh thị.

Một lần nữa, tôi xin nhắc lại rằng những đệ tử được dạy cách sử dụng kỹ thuật này có tự do đặt một trạm truyền thông để có thể giao tiếp với những người thân mất tích, hay đã chết. Tuỳ theo trường hợp, một thông điệp từ phía này gởi cho một người nào đó, có thểhoặc không thể tới tay người nhận; nhưng nếu có tới, cũng không chắc được trả lời, vì cần phải có sự phối hợp trong bản chất một cách tự nhiên.

Câu hỏi thường được đặt ra là: thị giác tâm linh có bị giới hạn bởi khoảng cách không? Câu trả lời thường là không, nhưng còn tùy thuộc một cách tương đối vào các cõi mà nó biểu hiện. Điều cần nhớ, cõi trung giới và thượng giới của trái đất có giới hạn riêng củanó, cũng như bầu khí quyển của trái đất, nhưng những cõi này trải rộng thêm ra rất nhiều, vượt khỏi khoảng không gian vật chất bachiều đo. Như thế bất cứ loại nhãn thông nào thuộc những cõi thấp của hệ thống địa cầu đều không thể thông thương được với các hành tinh khác. Đối với một người có thể nâng tâm thức lên đến cõi bồ đề, họ có thể dễ dàng thông thương qua bất cứ bầu hành tinhnào khác thuộc dãy địa cầu, nhưng điều đó ở ngoài đề tài hiện tại của chúng ta.

Những khả năng nhãn thông mà chúng ta đã diễn tả cũng có thể cho thấy những sự việc ở những hành tinh khác. Khi vượt ra ngoài các sự rối loạn thường xuyên của bầu khí quyển trái đất, chúng ta có thể thấy rõ hơn nhiều; ngay đối với những nguời chỉ mở loại nhãn thông bình thường, nếu cố gắng tăng cường năng lực, cũng có thể đạt được sự hiểu biết thích thú về thiên văn học. Nhưng nếu chỉ chú trọng đến quả địa cầu và những vùng chung quanh, thì khả năng nhãn thông gần như vô hạn.

***

Tổng hợp sách trong Thư viện trái đất 

Facebook page

ĐỂ LẠI NHẬN XÉT

Please enter your comment!
Please enter your name here