Bệnh phong là một căn bệnh rất cổ xưa có từ thời Kinh thánh và có thể là trước đó nữa. Trong dạng thức tồi tệ nhất của nó, nó thực sự khủng khiếp, và thậm chí ngày nay các nạn nhân đang bị cô lập trong các bệnh viện, thuộc địa và hải đảo. Phần lớn điều này bắt nguồn từ nỗi sợ hãi liên quan đến căn bệnh này, vì nó dễ lây lan và các triệu chứng có thể tạo ra các tình trạng thể chất đáng tiếc kéo dài trong vài năm, trước khi giết chết bệnh nhân vào phút cuối.
Hiện nay nó được gọi là bệnh Hansen, và người ta vẫn chưa hiểu chính xác cách thức vi trùng xâm nhập vào cơ thể, hoặc lây truyền như thế nào. Nó là bệnh truyền nhiễm, nhưng thời gian ủ bệnh được ước tính là từ hai đến hai mươi năm. Nó hoạt động rất chậm. Mặc dù bệnh phong được coi là bệnh truyền nhiễm, nhưng các thành viên trong cùng một gia đình thường không mắc bệnh. Vì vậy, mặc dù bệnh phong đã xuất hiện từ đầu lịch sử như được biết, nhưng nó vẫn là một căn bệnh bí ẩn.
Thật khó để những người trong thời đại chúng ta có thể hiểu được nỗi kinh hoàng và sợ hãi mà căn bệnh đã tạo ra cho dân chúng vào thời Chúa Giê-su. Nó khủng khiếp đến mức giải pháp duy nhất là cô lập các nạn nhân, tách họ ra một nơi cách biệt với phần còn lại của dân số. Ở đó họ có thể sống nhưng sẽ không bị người khác quan sát. Nếu mọi người không thể nhìn thấy họ, người ta có thể quên họ. Vào thời Chúa Giê-su, sự đau khổ được cho là dấu hiệu của việc Đức Chúa Trời không hài lòng. Vì vậy, mọi người không quan tâm điều gì đã xảy ra với những giống nòi đáng thương này của loài người, miễn là người ta không phải liên quan gì đến họ. Kinh thánh gọi họ là “sự ô uế”, và mọi người sống trong lo sợ mắc bệnh. Những nạn nhân bất hạnh không thể được cứu chữa bằng các phương pháp thông thường, và bị loại khỏi xã hội, như một công dân đã chết. Cả làng của họ cũng bị xa lánh nhiều như những cá nhân vậy.
Kinh thánh mô tả các triệu chứng của bệnh này và các biện pháp phòng ngừa cần thực hiện, nhưng các mô tả rất mơ hồ. Ngày nay, hầu hết các học giả Kinh thánh đều đồng ý rằng bệnh phong được xác định bởi bất kỳ tì vết nào, thứ mà đánh dấu nạn nhân là “ô uế” theo Luật Do Thái. Các chuyên gia y học khẳng định một số triệu chứng không chỉ mô tả bệnh phong mà còn là một loạt các bệnh ngoài da khác phổ biến hơn, không lây lan cũng không nguy hiểm đến tính mạng. Một số bệnh này là một loạt các thể bệnh vẩy nến, một bệnh ngoài da cổ xưa và rất phổ biến. Đây là bệnh phổ biến nhất trong tất cả các bệnh ngoài da, gặp ở mọi vùng khí hậu và mọi chủng tộc. Trong một số trường hợp ở người nghèo và những người sống trong điều kiện không sạch sẽ, bệnh vẩy nến có liên quan đến các rối loạn truyền nhiễm khác, đặc biệt là bệnh ghẻ hoặc ngứa. Nó có thể nhanh chóng chuyển sang dạng mụn mủ và gây loét, do đó bắt chước một triệu chứng của bệnh phong.
Ngoài ra còn có một số loại bệnh ngoài da do ký sinh trùng thực vật hoặc ký sinh trùng biểu sinh gây ra. Bệnh hắc lào thông thường là một ví dụ nổi tiếng của bệnh như vậy. Không bệnh nào trong số này làm giảm sức khỏe tổng thể. Ngoài ra còn có nhiều loại nấm khác nhau, chẳng hạn như những loại nấm gây mốc thông thường và thối rữa khô, chúng tự sinh sôi và ảnh hưởng đến nhà cửa và quần áo. Đây có lẽ là điều mà Kinh thánh định nghĩa là bệnh phong trong nhà hoặc từ quần áo. Chúng làm xuất hiện một số loại bệnh vẩy nến và dễ lây lan.
Cũng có thể có những căn bệnh trong thời của Kinh thánh mà chúng ta hiện nay chưa biết đến. Nhiều người mắc các chứng bệnh ngoài da khác nhau trong thời Trung cổ và thậm chí sau này, thường bị coi là bị bệnh phong một cách sai lầm, và được điều trị như vậy bằng cách giam giữ trong các bệnh viện phong. Sai lầm này đã được thực hiện nhiều đến mức vào đầu thế kỷ 16, một cuộc thanh tra đã được tiến hành đối với các bệnh viện phong quá đông ở Pháp và Ý. Phần lớn trong số họ, và trong một số trường hợp là tất cả các người bệnh, được phát hiện chỉ bị các bệnh ngoài da khác nhau, và chỉ một số ít mắc bệnh phong thực sự.
Vì vậy, những người mắc bệnh không lây nhiễm và không nguy hiểm đến tính mạng có thể bị xếp vào cùng một loại và đày đi cách ly với những người bệnh phong. Người Do Thái không chấp nhận bất kỳ ngoại lệ nào, và bất kỳ ai có vấn đề về da dai dẳng đều bị coi là “ô uế”. Nỗi sợ hãi bao trùm, và không ai nghĩ đến việc đến gần một người bệnh phong, đừng nói là chạm vào người đó. Ngoại lệ duy nhất là Chúa Giê-su, vì ông chấp nhận mọi người như nhau. Ông có thể nhìn thấu bên dưới hình dáng bên ngoài biến dạng và biết rằng có một linh hồn con người không thể bị phá hủy đang cư ngụ bên trong cơ thể dị dạng đó.
Thông thường, bệnh phong thực sự là một căn bệnh diễn tiến chậm và ngấm ngầm. Ban đầu, hai đặc điểm khác biệt được biểu hiện: mất nhạy cảm của các sợi thần kinh cung cấp cho da và tình trạng tắc nghẽn của các mạch nhỏ dưới da, biểu hiện dưới dạng các đốm tròn hoặc các vết có dạng bất thường và mức độ khác nhau, trên trán, tay chân và cơ thể, mặt và cổ có lẽ chỉ nổi mẩn đỏ lan tỏa. Những đốm này có thể thay đổi màu sắc và do đó có thể tồn tại đồng thời các đốm đỏ, tía hoặc trắng. Trong giai đoạn đầu, hiếm khi có cảm giác đau, và tất cả các điểm bị ảnh hưởng sẽ có một mức độ tê hoặc mất cảm giác nhất định. Các ngón tay đặc biệt trở nên tê, hao mòn và có màu nâu. Có một số vết thương bị loét và chảy dịch.
Trong những trường hợp khác, các khớp bị trật và ngón tay và ngón chân bị rụng. Cuối cùng các chi bị mất và khuôn mặt và cơ thể bị biến dạng nghiêm trọng, do xương và sụn bị tấn công và phá hủy. Căn bệnh này có sự tàn phá lớn về thể chất, vì nó ăn dần và dần dần ở mọi bộ phận của cơ thể. Trong nhiều trường hợp, hầu như tất cả dấu vết của hình dạng con người có thể bị phá hủy do bị cắt xén và biến dạng. Mặc dù mất cảm giác thông thường là khá rõ rệt, nhưng thường có các cơn nóng rát bên trong và đau thần kinh gây ra sự khổ sở tột cùng. Những nạn nhân khốn khổ có thể sống mười hoặc mười lăm năm trong khi bệnh tiến triển, và không có phương pháp chữa trị nào thực sự hiệu quả. Các triệu chứng có thể được điều trị, nhưng bản thân căn bệnh này không thể chữa khỏi. Dầu cây Đại Phong Tử đã là phương pháp điều trị bệnh phong được xác định trong nhiều thế kỷ. Trong thời đại của chúng ta, bất chấp những bước phát triển về thuốc mới, dầu cây Đại Phong Tử và các dẫn xuất ethyl ester của nó vẫn tiếp tục được sử dụng rộng rãi ở nhiều nơi trên thế giới. Dầu này chiết xuất từ hạt của một loại cây lớn ở Ấn Độ. Rất có thể loại dầu này đã được biết đến và sử dụng ở Palestine, do hoạt động thương mại tích cực với các nước xung quanh, bao gồm cả Ấn Độ.
Trong Tân Ước có đề cập đến mười hai trường hợp mắc bệnh phong, và mười trường hợp phải được xem xét dưới một tiêu đề. Trong Luke 17:12 19, Chúa đã chữa lành mười người bị phong, và một người đã trở lại để tạ ơn. Không nơi nào trong Tân Ước đề cập đến việc Chúa Giê-su đi vào những ngôi làng biệt lập đặc biệt dành cho những người bị phong. Chỉ có một vài vụ việc mà ông ấy tình cờ gặp phải. Có lẽ điều này giải thích tại sao ông ấy không bị họ đẩy lùi hoặc làm cho sợ hãi. Theo nghiên cứu của riêng tôi với Naomi, ông ấy đã dành nhiều thời gian ở giữa bọn họ, tại nhà của họ.
Tôi đã đi sâu vào quá nhiều chi tiết vì tôi tin rằng sự hiểu biết về căn bệnh gây biến dạng này sẽ làm cho những điều kiện làm việc của Chúa Giê-su và những người theo ông, trở nên sống động hơn.
Khi Naomi nói nơi đầu tiên nhóm của Chúa Giê-su sẽ đến là làng của những người bị phong, tôi bắt đầu thấy sự logic trong suy nghĩ của Chúa Giê-su. Ông đã nhận ra rằng cháu gái của ông đã quyết tâm đi với ông. Ông đã không thể thuyết phục cô bé đừng đi. Nhưng sẽ là một sự “tự thiêu” (*nguyên văn: thanh tẩy bằng lửa); nếu đưa cô đến một nơi chẳng hạn như thuộc địa của người phong. Tại đây cô sẽ được tiếp xúc với những con người đáng thương với căn bệnh thuộc dạng tồi tệ nhất trên đời. Nó có thể khiến cô bé mạnh lên hoặc suy sụp. Cô sẽ nhận ra rằng loại công việc này không thú vị, nhưng nó có nghĩa là phải tiếp xúc với sự đau khổ của mọi người và sự cô lập có chủ ý. Việc Chúa Giê-su chọn đưa Naomi vào một tình huống như vậy và khiến cô phải đối mặt với điều tồi tệ nhất trước tiên, không phải là một việc tình cờ. Có lẽ ông ta có lý do rằng nếu cô không thể tiếp nhận nó, cô sẽ cầu xin được trở về với sự an toàn của gia đình cha mẹ cô ấy. Tôi tin rằng ông ấy sẽ sắp xếp để cô bé quay trở lại, nhưng trong trường hợp như vậy, đó là quyết định của cô ấy và cô ấy sẽ phải sống cùng với nó. Cô sẽ không có ai để đổ lỗi ngoài chính mình. Cô đã đi theo trái tim mình, và cô sẽ sớm nhận ra con đường Nazarene đi có phải là con đường của cô hay không.
Khi chúng tôi tiếp tục câu chuyện vào buổi thôi miên của tuần tiếp theo, tôi cho rằng không có điều gì thú vị có thể xảy ra trong hành trình một ngày rưỡi. Vì lý do này, tôi chuyển Naomi đến thời điểm khi hoàn thành chuyến đi.
D: Cuộc hành trình đầu tiên sau khi rời nhà cha mẹ cô đã gần kết thúc. Cô đang làm gì đấy? Cô nhìn thấy gì nào?
A: Chúng tôi đang vào làng của những người bị phong. Và tôi thấy một ao nước lớn, và tôi thấy những ngọn đồi. Ngôi làng được bảo vệ bởi những ngọn đồi đá vôi. Bây giờ chúng tôi đang vào làng.
D: Cô đã có một cuộc hành trình khó khăn lắm sao?
A: Cuộc hành trình dài và rất ấm áp, nhưng chúng tôi không gặp bất kỳ sự cố nào, vì vậy nó không phải là khó khăn đâu.
D: Những người khác trong nhóm có biết cô thực sự là một cô gái không?
A: Không, họ nghĩ tôi là một cậu bé. Tôi đang mặc áo choàng của một cậu bé. Và mặc dù khuôn mặt của tôi trông hơi nữ tính nhưng ở tuổi này thì rất khó để phân biệt. Tôi thuộc dạng gầy, nhăn nhó, nên đó là cách ngụy trang tốt cho con trai rồi.
D: Cô có đang sử dụng một cái tên khác không?
A: Tôi chưa… để tôi xem. (Cười thầm) Giờ thì tôi nhớ rồi. Tôi đã không nghĩ về nó, nhưng tất nhiên, có rất nhiều thứ trong đầu tôi. Tôi đã được giới thiệu và Nazarene do dự. Nhưng sau đó chú ấy giới thiệu tôi là Nathaniel. Nathan.
D: Nathan. Anh ấy có nói với họ rằng cô có quan hệ họ hàng với anh ấy theo bất kỳ cách nào không?
A: Không, chú ấy gọi tôi là con trai của một người bạn thân, người đang cố gắng tìm hiểu xem đây có phải là con đường đúng đắn để đi hay không.
D: Đó là điều rất khéo léo. Tôi tự hỏi những người khác trong nhóm biết gì về cô? Vậy anh ấy sẽ coi cô là Nathan hoặc Nathaniel vào lúc này. Cô nói ngôi làng này được bảo vệ bởi những ngọn đồi phải không?
A: Vâng. Để tôi xem liệu tôi có thể giải thích điều này hay không. Có một tập hợp các ngọn đồi đá vôi nhỏ, không cao lắm. Và dưới chân những ngọn đồi này là ngôi làng này. Cái hồ có thể là từ một con suối lớn. Nó ở phía bên kia của ngôi làng. Đây là một thuộc địa nhỏ. Có vẻ như có một chút đời sống thực vật, nhưng khu vực này khá khô hạn và hoang vắng.
D: Có phải nơi đây cách xa các làng hoặc thị trấn khác không?
A: Vâng. Họ chọn địa điểm này vì khoảng cách của nó. Những người này không được đối xử tốt, và họ cần một nơi để họ có thể sống trong hòa bình tương đối.
D: Tại sao họ lại không được đối xử tốt vậy?
A: Căn bệnh này tạo ra dị tật và gây nhiều sợ hãi cho người khác. Vì vậy, người bình thường không thân thiện và hầu như không thể nhìn những người bệnh này, nhất là khi bệnh đã thực sự trở nên nguy kịch. Họ sống trong lo sợ mắc phải căn bệnh này.
D: Cô đã bao giờ gặp những người bị bệnh này chưa?
A: Chưa ạ. Tôi không thực sự cảm thấy sợ hãi bởi vì tôi cảm thấy tôi đang ở nơi mà tôi phải ở thôi. Và tiếng nói nội tại của tôi và những lời cầu nguyện của tôi đã cho tôi sức mạnh để biết rằng tôi phải phụng sự. Và biết rằng tôi đang giúp chữa lành, dù về mặt thể chất hay tình cảm, đều mang lại cho tôi sức mạnh.
D: Tôi cho rằng nó cũng sẽ tiếp thêm sức mạnh cho cô, nếu Giê-su không ngại việc đi vào trong đó.
A: Vâng. Sự không sợ hãi của chú ấy làm tan biến bất kỳ nỗi sợ hãi nào mà tôi có thể có.
D: Và cô nói rằng có một số người khác trong nhóm, phải không?
A: Vâng. Để tôi xem liệu tôi có thể đếm số người không. Dường như có khoảng… mười hai người.
D: Họ đều là đàn ông sao?
A: Có hai phụ nữ lớn tuổi hơn. Tôi nghĩ đây là những phụ nữ có nền tảng trong việc chữa lành. Họ đã đi cùng với chú ấy trong những chuyến hành trình khác. Có lẽ họ đã đến, đặc biệt là khi chú ấy đến ngôi làng này.
D: Cô có nghĩ rằng anh ta đã đến ngôi làng này trước đây không?
A: Có, chú ấy đã đến rồi. Chú ấy thăm lại nhiều địa điểm khác nhau. Họ sống trong hy vọng về sự trở lại của chú ấy.
D: Cô có biết cô sẽ ở đó bao lâu không?
A: Tôi nghĩ rằng bảy ngày sẽ trôi qua.
D: Cô sẽ sống giữa mọi người trong khi anh ấy ở đó chứ, hay là, cô có biết không?
A: Chúng tôi thành lập nhóm trại của riêng mình, nhưng nó ở trong làng. Và sau đó tôi được ở bên cạnh chú ấy, và được các thầy thuốc chỉ dạy. Tôi sẽ chỉ là một người quan sát hoặc một người hỗ trợ mà thôi.
D: Vậy một số người trong nhóm là thầy thuốc à?
A: Vâng. Tôi biết những người phụ nữ đã có mặt trong các ca sinh nở và giúp đỡ trong việc đó. Nhưng họ đã hỗ trợ các thầy thuốc, vì vậy họ có kiến thức nền tảng của họ.
D: Cô có nghĩ rằng ai trong số những người đàn ông là thầy thuốc không?
A: Họ không thực sự được đào tạo, không phải lần này. Chú ấy không phải lúc nào cũng có được các thầy thuốc tình nguyện đến, khi chú ấy sẵn sàng thực hiện chuyến hành trình. Những người này có kiến thức về cách làm việc với những bệnh nhân phong này, và có thể đã từng là người hỗ trợ cho các thầy thuốc, vì vậy họ có thể tiếp tục làm điều này.
D: Vậy thông thường khi anh ấy thực hiện những chuyến hành trình này, anh ấy sẽ mang theo các thầy thuốc.
A: Phải ạ, nếu họ đi được và sẵn lòng.
D: Phải, tôi có thể hiểu rằng ngay cả một vị thầy thuốc cũng sẽ e sợ. Vậy thì, cô sẽ đi tiếp một chút và cho tôi biết điều gì sẽ xảy ra chứ?
A: (Thở dài) Vâng. À, có ba người chúng tôi đi vào một ngôi nhà nhỏ. Gia đình trong nhà là một người đàn ông lớn tuổi và một người vợ, và dường như có hai người khác ở đó. Người đàn ông lớn tuổi hơn… (cô ấy hít một hơi thật mạnh và một âm thanh kinh hoàng). Ôi, trời ạ!
Rõ ràng là Naomi đã có lần đầu tiếp xúc với một người đang ở giai đoạn tồi tệ hơn của căn bệnh này.
A: Tôi đang cố gắng mạnh mẽ nhưng… (nhẹ nhàng) điều đó rất khó. Ông ấy đang ở trong tình trạng rất nguy kịch. Có vẻ như tất cả những gì có thể làm bây giờ là cố gắng xoa dịu cơn đau của ông ấy, và hy vọng ông ấy sẽ sớm thực hiện quá trình thoát xác ra khỏi cơ thể.
D: Cô nói rằng có ba người trong số bọn cô đã vào đó. Giê-su có phải là một trong số đó không?
A: Vâng, và một trong những phụ nữ lớn tuổi. Cô ấy có một gói đựng băng gạc và các loại bột khác nhau mà cô ấy có thể trộn lại để giúp xoa dịu một số vết thương. Nó làm dịu lại nhưng dường như không có gì thực sự trị được căn bệnh này. Kể từ khi tôi ở đây, tôi đã thấy nó vào những giai đoạn khác nhau. Và thỉnh thoảng nó mang lại cho người ta hy vọng rằng nó sẽ không trở nên tồi tệ hơn. Nhưng những người này cố gắng hết sức có thể để sống với niềm tin và giúp đỡ lẫn nhau.
D: Cô nói tình trạng người đàn ông này tệ đến mức mà họ sẽ chỉ có thể cố gắng xoa dịu nỗi đau của ông ta được mà thôi. Có phải người phụ nữ sẽ làm điều đó không?
A: Đúng vậy, nhưng cô ấy ở đây chủ yếu để băng bó và cố gắng xoa dịu tình trạng tồi tệ nhất của sự thối rữa. Giê-su đang cầu nguyện và đặt tay trên người đàn ông. Và… dường như tôi có thể nhìn thấy một tia sáng phát ra từ khuôn mặt của người đàn ông này. Nazarene đặt tay lên đỉnh đầu, nơi đội vương miện, và tôi nhìn thấy ánh sáng rực rỡ này. Và rồi chú ấy đặt tay lên trái tim của người đàn ông. Chú ấy giữ yên như vậy và cầu nguyện cho người đàn ông. Và tôi nhìn thấy ánh sáng vàng này tỏa ra từ vùng tim của chú ấy. (Xúc động 🙂 Oooh! Thật khó để diễn tả.
D: Ý cô là gì vậy?
A: Nó đẹp, nhưng nó còn hơn thế nữa. Nó lấp đầy người ta. Nó lấp đầy mọi sự trống rỗng bên trong người ta. Và nó khiến cho người ta cảm thấy ấm áp và được yêu thương, và không còn sự trống rỗng bên trong. Thật khó để diễn tả thành lời.
D: Ý cô là cô cảm thấy như vậy chỉ bằng cách quan sát anh ấy thôi ư?
A: Vâng, vâng. Và bà có thể nói rằng người đàn ông này… khuôn mặt của ông ấy thoải mái… nỗi đau dường như đã bớt đi nhiều. Và Nazarene ngày hôm kia… chú ấy nâng tay tôi, và bằng một ngón tay chú ấy vẽ một vòng tròn trong lòng bàn tay tôi (cô ấy đã thực hiện những chuyển động này). Và chú ấy nói, ‘Đây cũng là trái tim. Trung tâm của lòng bàn tay cháu. Ở trung tâm là một xoáy luân xa tim khác.’ Và đó là lý do tại sao có rất nhiều sức mạnh trong việc chữa lành từ đôi bàn tay này, bởi vì năng lượng từ tim đi thẳng qua tay.
D: Anh ấy có dùng từ ‘xoáy luân xa’ không?
A: Tâm… trung tâm. Luân xa… tim. Tôi không chắc nữa.
D: Ý anh ấy là bàn tay của cô, hay của chính anh ấy?
A: Tôi nghĩ ý của chú ấy là tay của mọi người. Chú ấy nắm lấy tay tôi… và chú ấy nắm lấy tay kia, và chú ấy nói, ‘Đây cũng là trung tâm của trái tim.’ (Cô ấy lại thực hiện việc vẽ các vòng tròn ở giữa lòng bàn tay của mình).
D: Anh ấy đã vẽ một vòng tròn trong lòng bàn tay của cô sao?
A: Vâng. Có lẽ đây chỉ là một phần trong sự giảng dạy của tôi, bởi vì tôi đã luôn cảm nhận được năng lượng và sức mạnh ở đó. Và mỗi lần chú ấy chạm vào tôi, nó trở nên rất mạnh mẽ. Vì vậy, có thể nếu người ta hiểu biết về kết nối, nếu người ta nhận thức được kết nối, và nó được thực hiện thông qua trái tim và với sự thuần khiết, thì năng lượng chỉ là một kết nối trực tiếp. Và năng lượng từ trái tim là liều thuốc mạnh nhất.
D: Nhiều người sẽ không hiểu điều đó, phải không?
A: Tôi đoán là không, nhưng nó dường như là hiển nhiên đối với tôi.
D: Vậy thì ý anh ấy là ngoài trái tim bên trong cơ thể cô, còn có những trung tâm của trái tim (heart centers) khác trong cơ thể phải không?
A: Đó là cách chú ấy giải thích. Đó là điều tôi hiểu, và tôi chưa bao giờ nghe ai nói điều gì như vậy trước đây.
D: Có lẽ điều này giải thích một số cách anh ấy có thể chữa lành.
A: Khi chú ấy nói với tôi, điều đó có vẻ rất đúng. Nó rất có lý. Và sau đó khi tôi quan sát chú ấy, tất cả đều rõ ràng như vậy. Và khi bà nhìn vào mọi người, bà biết đây là một công cụ. Người đàn ông tội nghiệp này đang trong cơn đau tuyệt vọng, và khuôn mặt của ông ta ngay lúc này lại vô cùng bình yên.
D: Cô có nghĩ những người khác trong phòng có thể cảm thấy điều tương tự như cô cảm nhận được không?
A: Tôi không biết. Tôi biết họ phải cảm thấy điều gì đó, bởi vì… sự im lặng quá khác biệt. Họ hẳn phải cảm nhận được năng lượng, hoặc chỉ nhìn thấy tình yêu và sự quan tâm trôi chảy từ chú ấy.
D: Tôi nghĩ những ai đã quan sát anh ấy sẽ rõ ràng rằng đây không phải là một người đàn ông bình thường.
A: Không. Chú ấy nhận thức rất rõ, rất đồng điệu với… của chú ấy (cô ấy gặp khó khăn trong việc tìm từ). Sự kết nối của Chúa, hoặc Chúa bên trong chú ấy, hoặc mục đích của Chúa. Tôi không biết từ nào thích hợp. Nhưng tôi đoán rằng hầu hết mọi người thậm chí sẽ không nhận thức được những điều quá rõ ràng và đơn giản đối với chú ấy.
D: Cô có nghĩ anh ấy khác với những người đàn ông khác không?
A: Chú ấy khác biệt vì sự nhạy cảm và hiểu biết của mình, và hoàn toàn không sợ hãi. Chú ấy rất chắc chắn về vị trí và nhiệm vụ của mình.
D: Cô đã bao giờ nghe ai nói rằng anh ấy có thể khác biệt với những người đàn ông khác chưa?
A: Vâng. Có những người biến chú ấy thành một thứ gì đó giống như một vị chúa hơn. Chú ấy có sức mạnh và khả năng mà tôi chưa từng thấy. Tôi biết chú ấy là người bằng xương bằng thịt, nhưng tôi cũng biết rằng tinh thần và năng lượng của chú ấy thì khác hẳn.
D: Cô đã nghe mọi người nói rằng họ nghĩ anh ấy giống như một vị chúa hơn?
A: Vâng. Bởi vì khi người ta nhìn thấy chú ấy làm một số việc mà chú ấy làm, không còn cách nào khác để giải thích. Tuy nhiên, chú ấy rất cố gắng dạy rằng tất cả chúng ta đều có khả năng trở thành những gì chú ấy hiện đang là và làm những gì chú ấy đang làm. Ngoại trừ việc tôi tin rằng hầu hết chúng ta không thể tìm thấy sự thuần khiết của trái tim và ước muốn. Thật khó để đi trên con đường như của chú ấy, và không bị lôi kéo bởi những thứ khác mà hầu hết đàn ông và phụ nữ đều bị cuốn hút.
D: Phải. Phần đang sống trong mỗi con người sẽ rất khó để giữ được sự thuần khiết. Theo cách đó, anh ấy khác biệt.
A: Theo cách đó, chú ấy chẳng giống ai cả.
D: Tôi tự hỏi anh ấy nghĩ gì nếu nghe mọi người nói anh ấy giống như một vị chúa?
A: (Cười) Nhưng chú ấy không chấp nhận điều đó. Ồ, tôi có thể nhớ chú ấy đã nói – đại loại như thế này – chú ấy nói, ‘Người anh em của tôi ơi, tôi không hơn gì anh đâu. Tôi chỉ công nhận những gì tôi có khả năng và việc tôi có thể phụng sự thế nào. Và tôi có tình yêu và niềm tin thực sự vào đức Chúa của tôi.’ Chú ấy đang cố gắng làm rõ việc chú ấy nghĩ mục đích của mình là gì.
D: Anh ấy nghĩ mục đích của mình là gì?
A: Chú ấy nghĩ rằng chú ấy được gửi đến đây để trở thành một người thầy của cuộc sống, một tia sáng của cuộc sống. Để trở thành một tấm gương về những gì loài người có thể là, và những khả năng mà loài người có. Và mọi người đều có thể làm những gì chú ấy đang cố gắng dạy họ.
D: Điều đó có lý đối với tôi, nhưng cô biết mọi người như thế nào mà. Rất khó để khiến họ hiểu được.
A: Vâng. Và hầu hết mọi người đều sống trong nỗi sợ hãi về điều gì đó, hoặc nhiều thứ. Trừ phi họ có thể xua tan nỗi sợ hãi này và không e sợ việc biết về chính mình và lắng nghe trái tim của họ, thì họ sẽ không được liên hệ. Họ phải tự tìm ra nó.
D: Phải, điều đó có lý đấy. (Tôi quay lại cảnh cô ấy đang xem 🙂 Nhưng anh ấy đang giúp chữa cho người đàn ông này trong phòng, và sau đó người đàn ông không còn đau nữa. Anh ấy có làm gì khác trong ngôi nhà nhỏ đó không?
A: Không. Chú ấy đã ở với người đàn ông một lúc và sau đó chú ấy đi đến chỗ người vợ, và chỉ nắm tay cô ấy. Tôi hoàn toàn không nghe được chú ấy nói gì với cô ấy, nhưng chú ấy nói chú ấy sẽ quay lại. Và chú ấy tiếp tục chuyến viếng thăm tiếp theo.
D: Cô có đi cùng anh ấy trong chuyến viếng thăm đó không?
A: Vâng. Chúng tôi đã đi… Ồ, điều này rất buồn. Tòa nhà tiếp theo chúng tôi đi vào là nhà của những đứa trẻ không có gia đình hoặc cha mẹ. Bà thấy đấy, không phải tất cả những đứa trẻ này đều trông như bị bệnh. Bà không thể nói rằng họ mắc bệnh. Tôi đoán bệnh này có thể phát triển trên người ở nhiều giai đoạn khác nhau hoặc ở các độ tuổi khác nhau. Vì vậy, một vài trong số họ trông rất hoàn hảo. Và kế đó, một vài người trong số họ thì lại bị… ăn mòn đi (thở dài). Nhưng đây là ngôi nhà của những đứa trẻ.
D: Họ sống trong ngôi nhà đó cùng nhau sao, những đứa trẻ không có cha mẹ ấy?
A: Vâng. Có một y tá hoặc người chăm sóc là y tá luôn ở bên họ toàn thời gian. Và có những người trợ giúp hoặc hỗ trợ khác đến trong ngày.
D: Anh ấy làm gì ở đó vậy?
A: Chú ấy đến gặp từng đứa trẻ và… nói chuyện với chúng hoặc… Chú ấy luôn chạm vào. Tôi thấy chú ấy chạm vào khuôn mặt, mỉm cười yêu thương, và sau đó đặt tay lên họ. Nhưng chú ấy dành thời gian để nói chuyện với từng người trong số họ.
D: Bạn có nghe thấy anh ấy đang nói gì không?
A: Có một cô gái nhỏ ngồi trong góc và… chú ấy hỏi tên cô bé và … (cười tươi) cô bé trèo lên đùi chú ấy. Và cô bé hỏi chú ấy liệu cô ấy sẽ khỏe hay cô ấy sẽ chết đây. Và chú ấy nói với cô bé rằng cô bé sẽ khỏe, và cô bé sẽ lớn lên và giúp chăm sóc bọn trẻ. Và rằng cô bé phải có một trái tim thuần khiết, một trái tim đầy yêu thương, và không tuyệt vọng, bởi vì cô bé đang ở nơi mà Chúa cần cô. Và cô bé sẽ biết đến tình yêu thương và… đó là những gì chú ấy nói với cô bé (tất cả điều này được nói với một cảm xúc đẹp đẽ).
D: Điều đó rất đẹp. Cô gái nhỏ đã làm gì vậy?
A: Cô bé chỉ đang ngồi nhìn chú ấy chằm chằm. Và chú ấy ôm cô bé và đặt cô xuống. Và cô ấy đang mỉm cười. Và có một cậu bé mà chú ấy đang đi tới gần, cậu ấy chỉ có một chân. Và ồ, cậu ấy đang ở trong tình trạng rất tệ (thở dài). Nhưng Giê-su đang đi đến và quỳ bên cạnh cậu bé, và đặt tay trên cậu bé. Và khuôn mặt nhỏ bé của cậu ấy đang nhìn lên, và những giọt nước mắt đang chảy dài trên má cậu ấy (bản thân cô ấy đã suýt rơi nước mắt khi kể lại chuyện này). Nhưng đứa trẻ nhận ra một điều gì đó đặc biệt. Tôi có thể biết được.
Thật khó để tôi giữ cho mình được khách quan. Câu chuyện rất cảm động, tôi thực sự cảm thấy rằng tôi đã thực sự ở đó với sự hiện diện của tất cả cảm xúc chân thành này.
D: Cô có thể nhìn thấy điều gì lần này? Tôi đã nghĩ về ánh sáng đó.
A: Ồ. Tôi đã thấy… tôi dường như luôn nhìn thấy ánh sáng. Có lẽ không còn mạnh mẽ như tôi đã thấy trước đó nữa. Có điều gì đó rất mạnh mẽ với người đàn ông lớn tuổi đó. Nhưng tôi luôn thấy một chút ánh sáng tỏa ra từ bàn tay của Nazarene mỗi khi chú ấy đặt tay. Lần này tôi thấy ánh sáng rực rỡ khi chú ấy đặt tay lên đầu, trái tim và chân của cậu bé. Nhưng tôi cũng thấy vầng sáng, vầng sáng vàng, xung quanh đầu của Giê-su… giống như một nửa vòng tròn nhỏ.
D: Nó luôn luôn ở đó sao?
A: Không, không phải luôn luôn. Đôi khi nó ở đó khi anh ấy ở bên ai đó, hoặc đôi khi tôi sẽ thấy nó khi chú ấy đang nhìn tôi. Nhưng không phải lúc nào nó cũng ở đó.
D: Có chuyện gì xảy ra khi anh ấy đặt tay lên cậu bé này không?
A: À, nó giúp cậu ấy nhẹ nhõm hơn. Điều đó dường như luôn luôn xoa dịu mọi người. Nhưng đó là những gì tôi đã thấy.
D: Vậy thì phép mầu không phải lúc nào cũng xảy ra mỗi khi anh ấy làm điều này, hay cô định nghĩa phép mầu là như thế nào?
A: Tôi nghĩ rằng với sự thật là nỗi đau được xoa dịu và họ bình an, tôi có thể gọi là một ‘phép mầu’. Nhưng bà không thấy những người này, những người ốm yếu này, đứng dậy và đi lại và cơ thể của họ đã phát triển trở lại. Phép mầu chính là tình yêu thương và cách nó xoa dịu họ. Và nếu họ vốn đã định là nên khỏe hơn, thì họ sẽ khỏe hơn thôi. Tôi đã nghe những câu chuyện rằng một số người trong số này không bao giờ mắc bệnh này. Và đôi khi nó dừng lại, và họ không biết tại sao. Nhưng thông thường nó sẽ tiến triển và tất cả những gì bà có thể làm là giảm bớt cơn đau.
D: Vậy thì bệnh có các hình thức biểu hiện khác nhau đối với những người khác nhau.
A: Vâng. Và đôi khi nếu năng lượng của chú ấy được chấp nhận… có lẽ đó là những người có thêm nhiều niềm tin hơn hoặc sức mạnh hơn đối với những điều họ cảm thấy đến từ chú ấy, có lẽ những người này sẽ có một khoảng thời gian dễ dàng hơn. Mặc dù, chú ấy nói với tôi rằng mọi người đều có thời gian để được quay trở lại Nguồn Cội. Họ có thể chỉ ở trong cơ thể vật chất này một thời gian, vì vậy rất khó để biết.
D: Điều đó có lý. Anh ấy có lời giải thích nào cho việc tại sao mọi người lại phải chịu đựng như vậy không?
A: Chú ấy tin rằng đó là một phần của sự phát triển của cá nhân. Rất khó giải thích khi bạn nhìn thấy mọi người đau đớn như vậy và bị ăn mòn. Nhưng chú ấy biết về lý do tồn tại của mọi thứ, và bài học được rút ra từ mọi thứ, vì vậy không có điều gì ngẫu nhiên xảy ra cả. Có thể họ đã tạo ra sự học hỏi này ở một thời nào đấy trước đó, khi họ đến đây dưới một hình thức khác. Đó là lý do tại sao những người bị đau hoặc mắc bệnh đôi khi được phép đi sớm hơn những người khác, bởi vì bài học đã kết thúc.
D: Anh ta có nghĩ rằng con người đã sống trong các hình thức khác không?
A: Chú ấy không nói chính xác theo cách đó, nhưng chú ấy nói, ‘Khi họ đã ở đây trước đây. Khi họ đã học được những bài học trước đó.’ Chú ấy nói về điều đó theo những cách khác nhau. Nhưng người ta hiểu chú ấy tin rằng chúng tôi đến thăm vùng đất này nhiều hơn là chỉ một lần, để học hỏi và phụng sự. Và rằng chúng ta đang thực hiện sứ mệnh của Đức Chúa Trời mỗi khi chúng ta đến. Nó là để giúp chúng ta học hỏi và tiến gần hơn đến nơi mà chúng ta, với tư cách là một dân tộc, đáng lẽ phải đến. Để cho không có sự phân ly nào nữa.
D: Đây có phải là điều mà tôn giáo của cô dạy không?
A: Không. Tôi chưa bao giờ nghe từ nền tảng giáo dục của mình những điều mà tôi đã nghe từ chú ấy. Vậy mà khi tôi nghe từ chú ấy, nó nghe rất rõ ràng, rất đúng đắn, rất quen thuộc. Tôi biết chú ấy đã học ở nhiều nơi với nhiều người thầy thông thái. Vì vậy, chú ấy đã nhận thức được về nhiều điều hơn.
D: Phải, nhiều hơn nhiều so với giáo sĩ Do Thái bình thường.
A: Vâng. Họ không muốn nghe bất cứ điều gì mới. Vì vậy, chú ấy đi trên con đường của riêng mình, và dạy về tín ngưỡng của chính mình.
D: Có lẽ đây là một trong những lý do khiến anh ấy không phải lúc nào cũng đồng ý với Đền thờ.
A: Vâng. Và nó khiến các giáo sĩ Do Thái khổ sở và lo sợ rằng niềm tin của họ sẽ bị lung lay. Rằng quyền lực và thẩm quyền của họ sẽ bị nghi ngờ. Và chú ấy có thể làm điều này theo cách mà chú ấy không cần phải trở nên uy quyền và bạo lực. Vì vậy, tôi đã học được rằng có nhiều loại sợ hãi, và bạn không thể nhìn rõ ràng hoặc cảm nhận được sự thật hay ánh sáng. Bạn phải bóc đi từng lớp của sự sợ hãi. Và tôi đoán rằng điều đó có thể mất nhiều đời kiếp để thực hiện.
D: Vậy thì tôi có thể thấy rằng các giáo sĩ Do Thái sẽ e sợ anh ấy. Những người bình thường sẽ không thách thức thẩm quyền của họ, phải vậy không?
A: Không, bởi vì người ta được nuôi lớn với sự dạy dỗ rằng ‘Đây là sự thật. Đây là Luật, và cô không được thắc mắc hay thách thức nó.’
D: Họ hẳn phải nghĩ rằng anh ấy là một người rất khác thường, khi gây khó dễ cho họ như vậy.
A: Vâng. Hầu hết bọn họ, chứ không phải tất cả bọn họ. Có một số người khôn ngoan hơn và nhân hậu hơn. Họ sẽ không lên tiếng bênh vực chú ấy, nhưng họ sẽ không chống lại chú ấy.
Tôi quay lại khung cảnh mà cô ấy đang quan sát.
D: Anh ấy có làm gì khác trong nhà với bọn trẻ không?
A: Ồ, chú ấy chỉ đến thăm họ và sau đó họ sẽ ra ngoài và ngồi với chú ấy bên bờ suối. Hoặc nhiều người có thể đi bộ với chú ấy.
D: Điều đó rất tốt. Cô có làm gì khác vào ngày hôm đó không?
A: Ồ. Tôi đã cùng người phụ nữ lớn tuổi làm một số công việc nhà (không rõ từ ngữ) của cô ấy, và hỗ trợ băng bó và trộn bột. Tôi chỉ giúp dọn dẹp và làm cho mọi thứ trở nên thoải mái cho mọi người.
D: Vậy thì cô đã không ở với Giê-su suốt thời gian đó. Cũng có nhiều việc khác phải làm. Chà, nghe như thể cô đang làm những gì cô muốn làm. Cô có vui vì đã đến đây không, hay cô cảm thấy tiếc?
A: Ồ! Tôi rất vui. Đây là những gì tôi vốn nên làm. Tôi rất chắc chắn về điều này. Tôi không có mong muốn làm bất cứ điều gì khác. Như tôi đã nói, việc ở nhà cha mẹ, lấy chồng và cố gắng có một gia đình, tôi hẳn đã khiến nhiều người thất vọng. Bởi vì nếu người ta đi ngược lại với trái tim và trực giác của mình, thì cuối cùng chúng cũng sẽ tìm đến với người ta mà thôi. Rồi người ta sẽ phải đối mặt với chúng, và thường thì mọi người đều phải chịu đau khổ. Vì vậy, tốt hơn là nên trung thực và có lẽ điều đó sẽ gây ra một chút đau đớn khi vừa bắt đầu. Nhưng việc biết được sự thật của mình là gì và biết được mình nên ở đâu luôn là điều tốt nhất.
D: Tôi nghĩ rằng là một cô gái trẻ chưa ra ngoài thế giới nhiều, sẽ khó khăn đối với cô khi phải nhìn thấy những người bị bệnh khủng khiếp như vậy.
A: Thật khó khăn, bởi vì ngay cả trong tưởng tượng, tôi cũng chưa bao giờ hình dung nó có vẻ như thế này. Nhưng có một cảm giác áp đảo về việc được cần đến, và được trở nên hữu dụng. Và trong sự cho đi cũng như sự nhận lại, điều này lấp đầy tôi. Tôi không cần bất cứ thứ gì khác.
D: Thật giỏi, vì nhiều cô gái trẻ sẽ muốn về nhà sau khi nhìn thấy một cái gì đó như vậy.
A: Không. Đối với tôi, tôi muốn tiếp cận nhiều hơn nữa. Tôi muốn xoa dịu họ bằng mọi cách có thể.
D: Điều đó thật đáng ngưỡng mộ.
A: Không. Tôi không biết giải thích thế nào. Tôi không thể làm bất cứ điều gì khác trong cuộc sống này. Tôi cần điều này. Tôi cần điều này nhiều như bất cứ ai mà tôi có thể giúp đỡ, bởi vì không có gì khác để lấp đầy được tôi.
D: Được rồi. Chà, hãy di chuyển sang những ngày sắp tới, và xem liệu có điều gì xảy ra khi cô ở đó, trong làng, mà cô muốn kể cho tôi nghe không nhé. Một sự kiện hoặc điều gì đó mà Giê-su làm mà cô muốn kể về. Cô có thể tìm thấy một vụ việc nào đó không?
A: Tôi thấy khoảng thời gian dễ chịu hơn khi chúng tôi quây quần bên nhau quanh suối nước. Đó là một ngày rất dễ chịu, và chú ấy có rất nhiều người dân trong ngôi làng bên ngoài cùng đi với chú ấy. Tôi thấy chú ấy đứng đó với hai tay giơ lên, và chú ấy đang nói. Và chú ấy đi tới và lấy một cốc nước nhỏ… và chú ấy đưa nó cho một trong những người phụ nữ đang ngồi đó. Cô ấy uống nước. Và chú ấy đặt tay lên đầu cô. Chú ấy nói với cô, ‘Người em gái của tôi, ánh sáng của Chúa đang ở trên cô. Năng lượng này đang chảy qua cô. Cô sẽ tìm thấy sức mạnh, và cô sẽ giải phóng được căn bệnh này. Bởi vì cô được cần đến trong một khả năng khác.’ Và tôi nhìn thấy người phụ nữ đang ngồi đó trong trạng thái xuất thần… Tôi cảm thấy một làn gió mát… Và tôi nhớ thời gian trôi qua. Chú ấy ngồi xuống đối diện với cô. Và tôi thấy hai tay chú ấy đang nâng lên như thế này (cô ấy giơ tay lên để lòng bàn tay hướng ra ngoài). Tôi nhìn thấy ánh sáng rực rỡ từ trái tim và xung quanh đầu chú ấy, và trên tay chú ấy, ở giữa lòng bàn tay chú ấy. Cô ấy mở mắt ra. Và cô ấy có một cái nhìn khác, điềm tĩnh hơn… Và cô ấy đang khóc. Cô ấy nắm lấy tay chú ấy và hôn nó, và cảm ơn chú ấy, vì cô ấy biết một sự thay đổi đã đến với cô ấy. Cô ấy nói rằng cô ấy đã nghe thấy một giọng nói nói với cô ấy. Và cô ấy biết rằng vị trí của cô ấy là ở trong làng, và được đào tạo như một thầy thuốc, để cô ấy có thể giúp chữa bệnh và an ủi những người cần cô ấy.
D: Cô có nghĩ rằng cô ấy đã được chữa khỏi bệnh không?
A: Tôi có thể nói rằng đối với tôi, cô ấy trông có vẻ khác. Có một thứ gì đó có thể nhìn thấy được trong ánh nhìn của cô ấy. Có một ánh nhìn bình tĩnh. Một loại ánh sáng khác. Có một sự thay đổi nhưng tôi thực sự không thể nói được. Tôi biết rằng chân của cô ấy đã bị ảnh hưởng, nhưng tôi không biết, bên trong cô ấy, cô ấy đã bị ảnh hưởng nặng nề như thế nào. Vì vậy, chúng ta sẽ xem thử. Nhưng đây không phải là cùng một người.
D: Tôi tự hỏi liệu cô ấy có một số dấu hiệu rõ ràng của việc căn bệnh đã được biến đổi hay không?
A: Tôi nhớ là nó ở chân cô ấy, và cô ấy đi lại khó khăn. Nhưng tôi không thấy cô ấy đứng dậy hay di chuyển. Cô ấy chỉ ngồi ở chỗ đó, hôn tay chú ấy, và tôi đang nhìn thấy những giọt nước mắt chảy dài. Nước mắt của tình yêu và niềm vui. Nhưng gương mặt, cái nhìn khác hẳn. Một điều gì đó chắc chắn đã thay đổi người này. Tôi nghĩ rằng đôi khi những thay đổi về thể chất diễn ra chậm hơn; chúng không phải lúc nào cũng xảy ra ngay lập tức. Điều ngay lập tức là diện mạo hoàn toàn khác của cô ấy. Vẻ yên bình, rực rỡ.
D: Có thể sự thay đổi về thể chất sẽ diễn ra từ từ trong một khoảng thời gian dài hơn.
A: Tôi từng nghe nói điều này đã xảy ra rồi. Và tôi hy vọng rằng điều này sẽ xảy đến với cô ấy.
D: Vậy thì đôi khi anh ấy không chỉ xoa dịu nỗi đau. Anh ấy làm việc theo những cách khác nhau.
A: Vâng. Chú ấy nói rằng mọi người đều có mục đích riêng, kế hoạch của riêng họ. Và những người này cần tất cả sức mạnh của nhau để tiếp tục. Nếu họ có thể thấy rằng trong chính ngôi làng của họ, mọi người có thể khỏe lại và giúp đỡ được người khác, tự bản thân điều đó đang chữa lành cho những người khác.
D: Đúng vậy. Rồi cô có nghĩ rằng anh ta có thể nhìn thấy con đường của họ là gì không?
A: Tôi nghĩ đôi khi chú ấy có thể, hoặc đôi khi khi chú ấy chạm vào mọi người, tôi nghĩ chú ấy có được những hình ảnh rõ ràng hoặc những suy nghĩ rõ ràng. Và chú ấy lập tức biết được họ vốn nên làm gì.
D: Rõ ràng anh ấy có thể biết được rằng người phụ nữ này vốn nên làm một việc khác.
A: Vâng. Tôi không thấy là nó luôn xảy ra theo cách đó. Hoặc đôi khi mọi thứ sẽ xảy ra và chúng tôi thậm chí sẽ không nghe về chúng. Không có kế hoạch trước cho điều đó. Nó xảy ra vào những thời điểm khác nhau; không có khuôn mẫu thường lệ nào cả.
D: Sau khi cô rời đi, một cái gì đó cũng có thể xảy ra, và cô thậm chí sẽ không biết về nó. Đó là ý của cô. Được rồi. Chúng ta hãy di chuyển tiếp đến một vụ việc khác mà đã xảy ra trong khi cô đang ở đó. Có điều gì thú vị khác đã xảy ra không?
A: (Tạm dừng) Chà, điều đó rất đặc biệt. Nhưng tôi… Ồ, vâng! Tôi thấy chú ấy lấy bông băng và bột đắp lên mặt một người đàn ông có hai gò má bị ăn mòn. Chú ấy đã làm điều này, và sau đó chú ấy để tay ở đó và cầu nguyện. Và khi chúng tôi quay lại để kiểm tra người đàn ông này vào ngày hôm sau, sự thay đổi là… (thở dài) Thật khó để nói về nó vì nó có vẻ không có thật. (Kinh ngạc 🙂 Nó… như thể gò má đã được tái tạo trở lại. Bệnh vẫn còn, nhưng tôi chưa bao giờ thấy các loại bột có tác dụng như vậy khi những người phụ nữ sử dụng chúng. Nó luôn luôn hữu ích. Nó luôn làm dịu cơn đau – và đặc biệt nếu vết thương bị nhiễm trùng nặng, nó có thể tạo ra sự khác biệt lớn. Nhưng người đàn ông này đang cử động miệng ông ta và uống mà không hề đau đớn, và có… một ánh nhìn đã được biến đổi, giống như với người phụ nữ đó. Và tôi đoán, có lẽ đôi khi Nazarene sẽ biết điều đó… có thể chú ấy có một ý nghĩ hoặc một hình ảnh rõ ràng. Có lẽ chú ấy biết rằng mặc dù đây là con đường của người đàn ông này, nhưng người đàn ông đó đã tiến bộ nhiều về mặt tâm linh. Có thể bằng cách nào đó, với năng lượng từ trái tim của ông ta kết nối với Nazarene, nó mạnh đến mức ảnh hưởng đến thể chất. Và gương mặt của người đàn ông này đã được tái tạo lại, mặc dù căn bệnh vẫn còn đó. Nhưng ông ấy như một con người khác, với một ánh nhìn khác. Ông ấy đã có thể cử động và sử dụng miệng của mình, và ông ấy có thể làm điều này mà không hề đau đớn. Vì vậy, đây là một phép mầu nhiệm tuyệt vời. Chúng đều là những phép mầu. Tôi đoán là bất cứ điều gì đều có thể là một phép mầu.
D: Nó chỉ là không xảy ra theo cùng một cách vào tất cả mọi lần mà thôi.
A: Không. Và người ta sợ – không hẳn – có lẽ đó không phải là từ thích hợp. Nhưng việc nói về chuyện đã nhìn thấy một điều gì đó như vậy, hầu như khiến cho nó trở nên kém chân thực đi. Đôi khi, nếu người ta giữ nó cho riêng mình, họ biết nó an toàn, và nó sẽ vẫn như người ta đã thấy.
D: Bởi vì nó rất khó tin.
A: Nhưng điều đó… rất đặc biệt.
D: Có phải tất cả những người mà anh ấy tiếp xúc đều được giúp đỡ không, hay có một số người hoàn toàn không được giúp đỡ?
A: Tôi nghĩ rằng mọi người đều được xoa dịu. Ồ, nó không phải lúc nào cũng được lâu dài. Nhưng bà có thể thấy nỗi đau được xoa dịu khi anh ấy đến thăm và chạm vào họ. Hiếm khi nào căn bệnh được cải biến, nhưng họ luôn thấy dễ chịu dù chỉ trong một thời gian ngắn.
D: Tôi tự hỏi liệu có một số người nào không được giúp đỡ gì cả không.
A: Ồ. Tôi nghĩ có thể có, nhưng tôi chưa thấy điều đó. Tôi đã thấy chú ấy đặt tay và nói chuyện với những người này. Điều đó dường như đã giúp ích ngay cả khi nó chỉ được một thời gian ngắn.
D: Vậy là tất cả họ đều đã được giúp đỡ ở các mức độ khác nhau. Cô đã ở đó trong làng trong vòng bảy ngày như cô án chừng chứ?
A: Vâng. Chúng tôi đã ở đó trong bảy ngày.
D: Cô đã làm gì sau đó?
A: Chúng tôi đang trên đường đến một ngôi làng khác.
D: Tôi tự hỏi liệu cô có trở về nhà hay không?
A: Không. Tôi nghĩ hành trình lần này sẽ kéo dài thêm ba tuần nữa. Chú ấy có những khu vực nhất định mà chú ấy sẽ ghé thăm.
D: Cô có biết gì về những điều cô sẽ tìm thấy ở nơi tiếp theo không?
A: Đó là một ngôi làng mà chú ấy có rất nhiều tín đồ. Nơi họ yêu cầu chú ấy đến để thuyết giảng và kể bằng từ ngữ của chú ấy.
D: Nó có xa lắm không?
A: Để tôi xem nào… sẽ là hai ngày.
D: Cô có nghe thấy tên người đàn ông nào trong nhóm mà cô đã ở cùng suốt thời gian qua không?
A: Có. Có… John, Ezekiel và Jeremiah… David (dừng lại khi cô ấy nghĩ). Tôi không chắc.
D: Bây giờ cô đã ở chung với bọn họ, tôi nghĩ cô sẽ biết tên của một số người họ. Cô đã nói với tôi những gì những người phụ nữ đã làm. Những người đàn ông khác đã làm gì trong thời gian này?
A: À… bà thấy đấy, tôi đã không tiếp xúc với nhiều người trong số này.
Tôi đoán một số người trong số họ đã giúp sửa chữa và xây dựng, và một số người trong số họ là người ghi chép và giảng dạy. Tôi không dành thời gian với một số người trong số họ, hoặc thậm chí tôi còn chưa nhìn thấy họ. Vì vậy… tôi nghĩ họ có những nhiệm vụ cụ thể, những cách giúp đỡ khác nhau. Một số người trong số họ sẽ tự đi ra ngoài và cầu nguyện hoặc học tập, vì vậy không phải lúc nào tôi cũng gặp họ.
D: Điều đó có lý đấy, bởi vì phải có nhiều cách để giúp đỡ trong một ngôi làng mà tất cả mọi người đều bị bệnh như vậy. Công việc sửa chữa không thể được tiến hành (khi nhiều người bị bệnh như vậy), vì vậy, những người đàn ông có thể giúp đỡ theo cách đó. Và nếu họ là thầy giáo, thì có lẽ họ đang làm việc ở những nơi khác trong làng.
Điều này nghe có vẻ rất thực tế. Việc giải thích các câu chuyện trong Kinh thánh về Chúa Giê-su và các môn đồ của ngài cho ta cảm giác rằng họ đã theo ngài hết nơi này đến nơi khác để lắng nghe và cố gắng học hỏi từ ngài. Đối với tôi, phiên bản này nghe giống như những gì có thể đã thực sự diễn ra hơn. Cũng dễ hiểu rằng Chúa Giê-su sẽ ở quanh những người có nhiều tài năng, để họ có thể làm việc với những người mà họ tiếp xúc theo những cách thực tế. Rốt cuộc, họ đều đang sống trong thế giới thực đầy gian khổ. Nó cũng cho thấy rằng Chúa Giê-su đã không mong thực hiện các phép mầu liên tục. Ông ấy đưa các thầy thuốc (đàn ông và phụ nữ) đi cùng để sử dụng bột và thuốc chữa bệnh của họ. Ông ấy không dựa vào sức mạnh của một mình ông ấy. Phiên bản trong Kinh thánh của chúng ta luôn vẽ ông ấy là người toàn năng, không cần ai cả. Tôi tin rằng ông ấy thiên về xu hướng là một con người nhiều hơn, so với những gì chúng ta đã từng thừa nhận ông ấy (*như một vị thánh). Nếu ông ta thực sự không cần ai, thì ông ta hẳn cũng có thể sửa chữa các tòa nhà một cách thần kỳ. Nhưng các đệ tử và tín đồ đã làm tất cả những gì có thể để giúp đỡ, và không hề ngồi yên bên cạnh để xem người thầy thực hiện công việc của mình.
D: Nghe như thể Giê-su ở cùng nhiều loại người khác nhau trong chuyến hành trình của mình.
A: Vâng. Họ cũng thường tìm kiếm chú ấy. Nhiều người trong số họ cảm thấy cần được phụng sự và cống hiến, trong khả năng mà họ có thể làm tốt nhất. Vì vậy, họ dường như luôn ở đó vào đúng thời điểm, và cuối cùng chú ấy luôn được ở cùng với những người chú ấy cần.
D: John có nhiệm vụ cụ thể nào không?
A: Anh ấy dường như rất gần gũi với Giê-su, và anh ấy dường như cố gắng trở thành tai mắt khác cho chú ấy. Anh ấy giữ mọi thứ kết nối để những người cần gặp chú ấy có thể gặp chú ấy và để đảm bảo chú ấy có mặt tại các buổi họp mặt. John tổ chức nhiều hoạt động hoặc cuộc họp mặt.
D: Ý cô là anh ấy đi trước cả nhóm và thiết lập những thứ này?
A: Đôi khi anh ấy làm điều đó, tùy thuộc vào dạng thức của cuộc hành trình. Nhưng khi chúng tôi đến một địa điểm, anh ấy dường như giữ cho lịch trình của chúng tôi có tổ chức, đảm bảo mọi thứ được hoàn thành và thông báo cho Nazarene bất cứ điều gì anh ấy cần biết.
D: Vậy anh ấy sẽ biết khi ai đó muốn có một cuộc họp hoặc một cuộc tụ tập.
Đây là một ý tưởng thực tế khác không được trình bày trong Kinh thánh. John tương tự như một người đàn ông quan hệ công chúng. Chúa Giê-su không thể cứ lang thang từ làng này sang làng khác: ngài cần một người đi trước và đảm bảo mọi thứ đã sẵn sàng, và kiểm tra xem mọi thứ có an toàn không.
D: Ngôi làng cô sắp đến, nơi cô nói có những nhóm tín đồ của anh ấy, ngôi làng này có tên không, hay cô đã từng nghe nó được gọi là gì chưa?
A: Nghe giống như… Bar-el (cô ấy lặp lại điều đó và tôi đã nói theo cô ấy).
D: Và cô sẽ đến đó sau hai ngày. Lần này sẽ khác. Sẽ không có nhiều người bệnh ở đó. À, anh ta đã để cô bắt đầu bằng cách cho cô thấy điều tồi tệ nhất, phải không nào?
A: Vâng. Điều mà cũng ổn thôi, bà biết đấy.
D: Có lẽ sự khôn ngoan đằng sau đó là, nếu cô không thể thích nghi với nó, anh ấy sẽ biết được ngay lập tức (cả hai chúng tôi đều cười). Nếu tôi lại đến và nói chuyện với cô thì có ổn không? Bởi vì tôi thích nghe hành trình của cô và những câu chuyện của cô. Tôi cũng muốn được học hỏi nữa.
A: Tôi cũng vậy.
D: Và tôi muốn tìm hiểu nhiều điều nhất có thể về người đàn ông này, vì vậy cô cũng đang giúp tôi nữa.
Sau đó tôi đưa Anna trở lại với toàn bộ ý thức. Tôi để máy ghi âm chạy khi cô ấy kể cho tôi nghe một số điều mà cô ấy nhớ về buổi thôi miên.
A: Tôi đang nhớ rằng những người không khỏe hoặc không trở nên khá hơn đã không hề tức giận đối với những người hết bệnh. Ngay bây giờ, với trí nhớ vẫn còn rõ ràng như thế này, tôi đang có một cảm giác rất mạnh mẽ về điều đó.
D: Không có sự oán giận nào sao?
A: Không. Và vì lý do nào đó mà ý nghĩ đó vừa nảy ra trong đầu tôi, bởi vì ngay bây giờ tôi thấy nó không bình thường.
D: Chà, toàn bộ thứ này đều không bình thường mà! (cười).
A: Có lẽ bất kỳ ai trong số những người tiếp xúc với ông ấy đều biết sự xoa dịu đó là đủ rồi, cảm giác được lấp đầy… dù chỉ là trong một thời gian ngắn thôi. Và có lẽ việc tiếp xúc với cảm giác đó đã mang lại cho họ đầy đủ những niềm vui đối với những người xung quanh họ, khiến họ vơi đi bất kỳ sự oán giận nào có thể đã có trước đó.
D: Điều này cho thấy rằng tất cả những gì ông ấy đã làm là chống lại bản chất của con người.
A: Tôi đang cố gắng so sánh điều này với bất kỳ sự hồi quy nào khác mà chúng ta đã thực hiện. Cũng giống như vậy, nhưng lần này có nhiều… liên kết hơn và xúc động hơn, tôi đoán là tôi có thể nói vậy. Có lẽ một số điều này đang ở lại với tôi. Tôi đoán mỗi sự hồi quy đều đã dạy cho tôi một bài học về điều gì đó. Tôi cảm thấy thực sự tốt về buổi này, bởi vì tôi cảm thấy rất rõ ràng về nó. Ý tôi là, người đàn ông đó là thật đối với tôi. Và để tôi nói với bà, khi tôi nhìn vào đôi mắt đó – tôi vẫn có thể cảm thấy rằng – tôi đã hoàn toàn được lấp đầy. Tôi chưa bao giờ biết cảm giác đó trước đây, hoàn toàn tràn đầy mãn nguyện và yêu thương. Đã luôn luôn có một khoảng trống nhỏ trong tôi trước đấy, và rồi điều đó đã biến mất.
D: Bây giờ nó đã biến mất ư?
A: Chà, nó đã biến mất khi chúng tôi đang làm việc. Nó không biến mất trong cuộc đời này. Nhưng… luôn luôn có một chỗ trống rỗng cứ đang cằn nhằn này. Khi tôi ở bên ông ấy và nhìn vào mắt ông ấy, đó là cảm xúc xúc động trọn vẹn nhất mà tôi từng có.
Mặc dù Anna thể hiện điều đó theo cách khác, về cơ bản, cô ấy đang mô tả cùng cảm xúc mà Mary đã cảm thấy. Rõ ràng rằng Chúa Giê-su đã có ảnh hưởng tuyệt vời lên người khác.
A: Khi tôi được hồi quy, việc tôi ở nơi đó là điều rất hiển nhiên, nhưng sau đó khi tôi tỉnh táo, tôi lại không nghĩ nó là hiển nhiên (*nguyên văn: ‘hiển nhiên’ sẽ là điều cuối cùng tôi nghĩ đến.) Tôi thực sự cảm thấy rất xúc động, nhưng cũng rất được thanh tẩy. Ý tôi là, tôi cảm thấy rất thư thái.
D: Chà, đó là cảm xúc tuyệt vời nhất mà cô đã nhận được rồi. (*Nguyên văn: Cô không thể đòi hỏi bất kỳ cảm xúc nào tuyệt vời hơn nữa.)
Đây là một điểm thú vị đã được đưa ra trong buổi thôi miên này: thực tế là Chúa Giê-su đã không chữa lành cho mọi người mà ngài đã gặp. Khái niệm này cũng đã được trình bày trong quyển Chúa Giê-su và người Essene. Ông ấy có thể xoa dịu nỗi đau và sự thống khổ cho phần lớn những người ông ấy tiếp xúc, nhưng việc khắc phục hoàn toàn các triệu chứng và phục hồi hoàn toàn sau bệnh tật hoặc tàn tật là rất hiếm. Có nhiều lần họ không được trị khỏi, và Naomi đã nói rõ rằng điều này không nằm trong khả năng của Chúa Giê-su. Nó liên quan đến nghiệp quả và số phận của người đó trong cuộc đời. Ngay cả ông ấy cũng không thể chống lại các nguồn lực cao hơn đang điều khiển những thứ như vậy.