Những người giám hộ – Chương 5 Kí ức bị chôn vùi.

0
272

Sau đó, một người phụ nữ bước vào phòng, và làm rơi một viên nang xuống sàn. Nó nhìn như một viên thuốc con nhộng tan chậm, chỉ khác là nó trong suốt. Nó được cho vào chất lỏng trong các lồng ấp để nuôi thành bọn trẻ. Tôi nghĩ ý cô ấy là viên nang chứa một thứ gì đó được cho vào chất lỏng để giúp bọn trẻ phát triển, nhưng cô ấy nhấn mạnh rằng viên nang chính là đứa bé.

“Nó như là hạt giống để tạo thành đứa bé. Họ cho viên nang vào trong chất lỏng, rồi một đứa bé sẽ phát triển ra từ đó và tiếp tục lớn lên. Nhưng cô ta đã làm rơi viên nang này xuống sàn. Nên tôi đã cúi xuống nhặt nó lên và cho vào túi. Tôi muốn nói cho ai đó về việc này, và cho họ xem viên nang, vì tôi biết đó là cách người ta tạo ra bọn trẻ. Thế là có những người khác trong phòng nói rằng tôi không nên giữ viên nang đó. Tôi sợ, vì họ đã giận dữ với tôi. Ngay lúc đó tôi tỉnh giấc.” Carrie nói tiếp, “Dù sao thì, đó là giấc mơ của tôi, và tôi chưa bao giờ quên được nó. Suốt thời gian học đại học, tôi đã mơ thấy những đoạn ngắn của cùng một giấc mơ đó. Tôi cảm thấy như là ban đêm thay vì ngủ thì mình đang làm việc ở phòng nuôi trẻ đó. Thảo nào khi tỉnh giấc tôi thấy mệt mỏi. Tôi không biết liệu điều này có liên quan đến UFO hay không. Tôi là một nghệ sĩ. Tôi là một người sáng tạo. Có thể nó có liên quan đến UFO, hoặc có thể nó chỉ là những giấc mơ. Nếu chúng ta làm thôi miên, tôi có thể không nhớ được gì nhiều hơn những điều tôi đã kể cho chị.”

Connie đã ngồi cùng với bạn cô ấy trong buổi thôi miên. Carrie cho tôi những ngày áng chừng mà cô ấy muốn khoanh vùng, và chúng tôi đã nhất trí thử bao quát hết tất cả mọi sự kiện, nếu có thể. Từ kinh nghiệm của mình, tôi biết rằng nếu các sự kiện chỉ đơn thuần là giấc mơ thì siêu thức sẽ nói cho chúng ta biết. Chúng tôi sẽ không biết được cho đến khi cô ấy quay trở về đúng những ngày đó. Carrie tỏ ra là một đối tượng xuất sắc, cô ấy nhanh chóng rơi vào trạng thái thôi miên sâu. Tôi đưa cô ấy về buổi tối mà cô đã xuất hồn và thấy những linh ảnh, đâu đó trong tuần cuối cùng của tháng Bảy năm 1978. Mặc dù ý thức của cô không nhớ được rõ ngày tháng, nhưng dưới sự thôi miên cô ấy đã ngay lập tức cung cấp ngày chính xác: 26 tháng Bảy.

Khi đang mô tả lại việc chuẩn bị đi ngủ đêm hôm đó, cô ấy bỗng trở nên khó chịu. Cô ấy kêu lên như thể sợ hãi, và rồi bắt đầu nức nở. Tôi đưa ra những ám thị nhằm xoa dịu, để cô ấy có thể cho tôi biết chuyện gì đang diễn ra. Tiếng nức nở ngưng lại, và rồi giữa những lần sụt sịt cô ấy giải thích rằng mình đột nhiên cảm thấy rất nặng nề và cảm giác đó thật đáng sợ. Mọi thứ đều tối đen và cô chẳng thể thấy được gì. Thế rồi có cái gì đó bảo cô đừng sợ, và rồi cô được bao trùm bởi một cảm giác yêu thương tuyệt vời. Sau đó, bóng tối chuyển sang màu xám, và dần dần cảnh vật bắt đầu xuất hiện. Cô ấy dường như đang lơ lửng trên các cảnh vật, và đó là một cảm giác khác thường. Cô nhận thức được có một thực thể đang ở bên cạnh mình, nhưng nó chỉ hiện ra như một mảng xám xịt mơ hồ không có hình dạng và vật chất cụ thể. Điều duy nhất để nhận biết được là đôi mắt to, nhưng thậm chí chúng cũng có vẻ lơ lửng và lúc ẩn lúc hiện. Những cảnh vật được chiếu về tương lai của cô giống hệt với kí ức của cô về chúng. Không có chi tiết mới nào được thêm vào.

Cảnh tượng khiến cô ấy phiền não nhất là cảnh cuối cùng về những người đang hấp hối trong một thành phố lớn. Cô đã khóc, giọng run rẩy khi tả lại cảnh đó. “Thật đáng buồn. Có rất nhiều người đang hấp hối. Một số người trong đó sẽ không thể khỏe lại, cho dù tôi có làm gì đi nữa. Tôi đang đưa cho họ thứ gì đó. Và tôi đang ôm họ trong tay, và tôi đang chạm vào họ. Và một vài trong số họ vẫn qua đời. Thật đau lòng khi nhìn thấy điều này. Tôi không thể giúp được tất cả bọn họ. Tôi đang cho họ thứ gì đó, theo lời của thực thể mờ ảo bên cạnh tôi này. Đó là một loại thức ăn. Tôi không biết vì sao họ đã bị bệnh. Nhưng họ đang bám víu vào các lan can. Màu da họ khá kì khôi, trông như có sắc xám, vàng hoặc xanh. Trông họ ốm yếu. Thật xấu xí, và tất cả đều trọc đầu và gầy gò.” Cô ấy đang khóc, “Trông tôi không gầy gò. Tôi không thể bị bệnh. Ông ấy nói với tôi rằng tôi không thể bị bệnh. Tôi phải chăm sóc những người khác. Một số được giúp đỡ, và một số thì không. Chỉ là họ quá đông. Tôi không nghĩ rằng họ bị bệnh do một cuộc chiến tranh. Đó là một loại vật liệu hạt nhân nào đó. Tôi không rõ liệu nó đến từ nguồn nước, hay điều gì đã xảy ra cho họ. Nó như một đám mây, nhưng không có cuộc chiến nào. Nó như một cơn bão. Có thể đó cũng chính là thứ đã làm chết những con cá mà tôi đã nhìn thấy. Nó có gì đó liên quan đến nước, như mưa chẳng hạn.”

Cô trở nên xúc động đến mức tôi nghĩ tốt nhất là nên đưa cô ấy ra khỏi khung cảnh tuyệt vọng mà cô không thể làm gì được ấy. “Tôi không thể giúp tất cả bọn họ,” cô nhấn mạnh, “nhưng họ khóc, họ khóc. Có quá nhiều người bị bệnh. Tôi không biết họ là ai. Tôi không nhận ra được ai cả. Nhưng tôi cảm thấy rất buồn cho họ, và tôi thương họ.” Cô phản đối, “Tôi không biết tại sao lại là tôi. Tại sao tôi lại làm việc đó? Thực thể mờ ảo đó đang nói với tôi rằng tôi không nên sợ hãi việc đó. Tôi đã được gửi đến Trái Đất vì điều này. Tôi không biết, tại sao là tôi. – Ồ, ông ấy có một đôi mắt đẹp. Tôi cảm nhận được tình thương từ ông. Và rồi dường như ông ấy chạm vào trán tôi, mặc dù ông không có ngón tay nào. Và đột nhiên tôi quay lại cơ thể của mình. Tôi đứng dậy, và đi ra khỏi căn phòng đó.”

Cô nhìn chăm chăm vào bầu trời đêm tối đen bên ngoài cửa sổ, và hút một điếu thuốc với vẻ bồn chồn, cố gắng tìm cách giải thích trải nghiệm vừa qua. “Tôi biết mình không phải nằm mơ. Tôi chưa từng ngủ mơ mà ngồi như vậy. Tôi nhớ được tất cả mọi thứ. Ông ấy đã nói tôi phải nhớ nó. Cảnh tượng đó đáng lý sẽ thực sự xảy ra, nhưng tôi không biết ở đâu.”

Vì cô ấy bối rối như vậy, tôi nghĩ tốt nhất là chúng tôi nên rời khỏi cảnh đó và chuyển sang trải nghiệm tiếp theo. Rõ ràng là đằng nào chúng tôi cũng chẳng thể có thêm được thông tin nào về nó. Sau khi xoa dịu cô ấy và đưa ra những lời ám thị để thư giãn, tôi đưa cô ấy lùi về tháng Chín năm 1963 khi cô là sinh viên đại học. Cô ngay lập tức trở về thời điểm đó, và mô tả chi tiết căn phòng kí túc của mình và bình luận về người bạn cùng phòng, cũng là bạn thân nhất của cô. Tôi bèn hướng dẫn cô ấy chuyển đến cái đêm mà cô có giấc mơ kì lạ về những đứa bé. Ngay lập tức cô bắt đầu mô tả lại những gì mình đang thấy.

C: Tôi đang ở trong một căn phòng. Và tôi trông như… một tình nguyện viên.

D: Một tình nguyện viên?

C: Phải. Chị biết đấy, những cô gái tình nguyện trong bệnh viện ấy.

D: Điều gì làm cô nghĩ rằng cô giống một người tình nguyện?

C: Vì tôi đang ở trong một phòng nuôi trẻ. Có nhiều đứa bé trong đó. Tôi đang mặc một chiếc tạp dề có túi. Đó là lý do tại sao trông tôi như một tình nguyện viên.

— Nhưng tôi sợ bọn trẻ.

D: Tại sao cô lại sợ một đứa bé?

C: Bởi vì chúng trông buồn cười. Chúng có đôi mắt to. Và chúng rất thông minh.

D: Làm thế nào mà cô biết được chúng thông minh?

C: Vì chúng nói chuyện với nhau.

D: Bằng miệng của chúng à?

C: Không. Chúng đang ở trong nước. Mực nước đều ngập quá đầu chúng. Chúng đang chìm trong nước. Giống như là chúng đang hướng suy nghĩ đến nhau, nhưng tôi có thể biết được chúng đang nghĩ gì. Một trong số chúng biết được tôi đang giữ viên nang. Và nó sẽ nói.

D: Cô đang nói về viên nang nào vậy?

C: Viên bị rơi trên sàn nhà ấy. Đó chỉ là một viên nang cũ. Nó như một viên thuốc. Và chị có thể nhìn xuyên qua nó.

D: Không có gì ở trong nó ư?

C: Chà, có cái gì đó bên trong, nhưng chị cũng có thể nhìn xuyên qua cả nó. Tôi không nhìn được đó là cái gì.

D: Cô vừa nói một trong số bọn trẻ nói rằng nó sẽ kể chuyện đó ra à?

C: (Giọng trẻ con) Ừ. Nó sẽ mách lẻo về tôi. Và nó đang bực bội với tôi. Tôi có thể nghe thấy nó trong đầu.

Carrie mô tả vật chứa bọn trẻ giống như những cái thùng to có cạnh tròn. Chúng được làm từ một vật liệu giống như nhựa trong. Cô biết nó khác với nhựa, nhưng không cứng như thủy tinh. Có rất nhiều thùng như vậy trong phòng. Cô thử đếm chúng, và nghĩ rằng có ít nhất mười lăm, có thể đến mười bảy, bể chứa như vậy. Chúng được đặt trên một cái gì đó, vì cô có thể nhìn vào chúng mà không cần cúi người. “Và tất cả những cái bể chứa đó đều được nối với nhau bằng một cái ống trong suốt. Đó chính là thứ giữ cho nước luôn đầy. Cái ống này đi đến tất cả các bể chứa đó: giữa bể này với bể kia, cắm vào cái này và đến cái kia, như một cái vòi. Nó đi ra từ bên tường, nơi có các núm để vặn và nút để nhấn. Tôi không biết chúng để làm gì. Tôi không liên quan gì đến phần việc đó. Có người phụ nữ này vào phòng, vặn các nút, và đảm bảo rằng bọn trẻ đều ổn. Cô ấy thích bọn trẻ và nói chuyện với chúng. Công việc của tôi là trông chừng bọn trẻ, chăm sóc chúng. Tôi phải kiểm tra nước. Có nhiệt độ hay thứ gì đó ở bên cạnh mà tôi phải kiểm tra. Bọn trẻ có cái đầu lớn và một cơ thể nhỏ xíu. Tôi không thích chúng. Chúng thật xấu xí.”

D: Bọn trẻ lúc nào cũng ở trong nước à?

C: Ừ. Tôi chưa bao giờ thấy chúng ra khỏi nước.

D: Cô đã từng thấy cảnh này trước đây chưa?

C: Có chứ. Rất nhiều lần. Vì vậy mà tôi có thể làm việc ở đây.

Cô mô tả người phụ nữ trông như con người bình thường, mặc dù người đó lạnh lùng và trông nghiêm khắc. “Cô ấy là sếp của tôi, nhưng tôi không thích cô ta. Cô ta xấu tính lắm. Ngoại trừ việc cô ta không phải là sếp lớn.”

D: Sếp lớn là ai?

C: Người đàn ông trong căn phòng khác.

D: Cô có biết ông ta trông như thế nào không?

C: Tôi không chắc. Tôi không vào chỗ đó.

D: Trong phòng có bất kì đồ đạc nào hay bất kì thứ gì khác không?

C: Tôi không thấy có bất kì đồ đạc nào. Chỉ có bọn trẻ trong bể chứa thôi. Tôi phải đi lên đi xuống giữa bọn chúng. Tôi phải kiểm tra nhiệt độ và nước, và bảo đảm rằng mức nước đủ cao. Một vài đứa bé nhắm mắt, một số khác thì mở mắt. Bọn chúng trông đều giống nhau. Xấu xí. Một vài bể chứa còn trống. Đó là nơi chị đặt viên nang vào.

D: Cô có thể cho biết việc đó được thực hiện như thế nào không?

C: Cô ta đặt viên nang vào trong một lớp nước cao khoảng hai phân rưỡi. Đổ một ít nước vào bên dưới qua đường ống. Rồi cô ta cho một số thứ khác vào nước, nhưng tôi không biết đó là gì. Cô ta đem mấy thứ đó theo bên mình. Nó ở trong một cái chai nhỏ. Và cô ta cho một nhúm gì đó vào, như kiểu khi nấu ăn chị cho một nhúm cái này và một nhúm cái kia vào ấy. Rồi cô ta đặt viên nang vào trong đó. Sau đó nó tan ra, và bắt đầu phát triển thành một đứa bé.

D: Việc đó có mất nhiều thời gian không?

C: Không. Tôi không chắc là bao lâu vì không phải lúc nào tôi cũng ở đó. Nhưng tôi biết nó không mất nhiều thời gian.

D: Cô có nghĩ rằng đó là những đứa trẻ loài người không?

C: Không, vì chúng xấu xí. Nếu là loài người thì hẳn chúng đã mắc bệnh.

D: Cô nghĩ chúng là gì?

C: Tôi không biết.

D: Chà, cô có bao giờ ra khỏi căn phòng này không?

C: Có. Tôi không biết chúng tôi đang ở đâu, nhưng đó là một nơi rộng lớn.

D: Chỗ đó có như một bệnh viện không?

C: (Tạm ngừng, sau đó cẩn thận.) Tôi không biết. Tôi đoán đại loại là vậy. Nó giống như một khu quân sự.

D: Tại sao cô lại cảm thấy nó là khu quân sự?

C: Chị phải nhận lệnh. Chị không thể cứ đi bất cứ nơi nào mình muốn.

D: Làm cách nào cô đến được đó?

C: Chị chỉ tỉnh dậy, và chị đã ở đó rồi.

D: Cô ở đó bao lâu?

C: Ồ, ít nhất là qua đêm.

D: Vậy khi rời khỏi đó thì cô làm thế nào?

C: Chị đi ngủ. Chị tỉnh giấc. Và thấy đó là một giấc mơ.

D: Cô nói rằng cô đã làm việc này nhiều lần?

C: Ồ, vâng! Tôi nghĩ phải từ lúc tôi mười bốn hay mười lăm tuổi. Không phải bất kì ai cũng được bọn họ để cho chăm sóc bọn trẻ. Tôi không biết tôi đã đến đó bằng cách nào. Nhưng tôi phải làm việc với bọn trẻ.

D: Cô không có bất kì lựa chọn nào à?

C: Không. Chị không thể rời căn phòng đó.

D: Cô có biết bọn họ làm gì với những đứa bé đó không?

C: Chúng trưởng thành. Và bọn họ có vẻ ngoài trông buồn cười.

D: Cô đã nhìn thấy các sinh vật trưởng thành trông như thế nào chưa?

C: Bọn họ cao, và rất gầy. Họ có cánh tay dài. Tôi chưa từng nhìn gần bọn họ.

D: Khi lớn lên thì khuôn mặt của họ trông thế nào?

C: Cũng giống y như lúc họ còn bé. Xấu xí. Họ có đôi mắt to. Và một khung hàm mỏng, hầu như không có. Và đôi mắt… mắt họ như có dầu. Chúng đổi màu. Chúng có màu đen, và ướt.

D: Chúng đổi thành màu gì?

C: Tím, lam, như dầu vậy. Trông như một vết dầu loang với nhiều sắc màu khác nhau trong đó.

D: Da của họ khi lớn lên có màu gì?

C: Tôi nghĩ những đứa trẻ khi lớn trông khôi hài, với vẻ ngoài có sắc tím, xám, và như bị bệnh. Với bọn trẻ, gần như chị có thể nhìn qua da của chúng. Trong suốt đến mức chị có thể thấy các tĩnh mạch. Và với sinh vật trưởng thành cũng tương tự như vậy.

D: Khi trưởng thành thì bọn họ có mặc trang phục gì không?

C: Tôi không nói được. Dù vậy, người đó khá gầy gò. Ông ta có đôi tay dài. Chúng dài đến tận dưới chân ông. Khi tôi nhìn thấy ông ta, ông đang ở phía xa. Ông ta đang đứng trên đầu cầu thang nhìn xuống.

D: Căn phòng đó có cầu thang à?

C: Không. Nó ở bên ngoài phòng. Chị không thể đi ra ngoài. Nó ở bên ngoài cánh cửa, nơi chị không được phép đến. Tôi đã nhìn theo khi người phụ nữ kia đi ra.

D: Nghe như là khu vực đó phải rộng lớn hơn.

C: Đúng vậy. Nó rộng hơn.

D: Thế thì ông ta ở quá xa để cô có thể thấy được tay ông ta. Cô có thể biết được họ có bao nhiêu ngón tay bằng cách nhìn vào bọn trẻ không?

C: Ngón tay của bọn trẻ rất dài. Và chúng có một ngón cái, nhưng nó ở phía trên bàn tay chúng một cách buồn cười. Ngón cái đó ở tít trên cổ tay chúng.

D: Chúng có bao nhiêu ngón tay?

C: Tôi không… Tôi ghét phải chạm vào chúng.

D: Cô có từng phải chạm vào chúng không?

C: Có. Chị phải vuốt thẳng chúng ra ở trong nước. Nếu bọn chúng bị lật, chị chỉ cần cho tay vào và lật chúng lại, để đầu của chúng nằm ngửa. Để chúng không bị lật sấp và bị quấn lại. Bọn trẻ nằm trên cánh tay của chúng hoặc cái gì đó mà không đúng tư thế cho lắm, bởi vì cơ thể của chúng không hoạt động. Thế là tôi phải cho tay mình vào trong nước để lật chúng lại. Và nước có cảm giác khá buồn cười, gần như là có chất bôi trơn trong đó. Công việc của tôi là vậy, nhưng bọn chúng không thích tôi lắm. Đôi khi chúng chỉ nhìn chằm chằm vào chị thôi.

D: Những đứa bé này đến từ đâu? Chúng có bố và mẹ không? (Đây là một câu hỏi mà Carrie đã viết lại trước khi chúng tôi bắt đầu thôi miên.)

C: Chúng đến từ một viên nang.

D: Viên nang đó đến từ đâu?

C: Ai đó đã tạo ra nó.

D: Trong một căn phòng khác hay sao?

C: Hẳn phải vậy. Nó không ở trong này.

D: Làm sao cô biết được chúng ở trong viên nang đó?

C: Bởi vì chúng bắt đầu phát triển ra từ viên nang, với một cái đầu và cơ thể bé tí.

D: Chà, cô có biết được vì sao họ tạo ra bọn trẻ đó không?

C: Tôi không biết. Tôi chỉ chăm sóc bọn chúng. Chúng không làm hại gì cả. Chúng chỉ lớn lên thành người trưởng thành. To lớn. Những sinh vật trông khôi hài.

D: Cô có nhìn thấy lúc chúng được đưa ra khỏi nước không?

C: Không. Tôi không được giữ chúng lúc đó.

D: Vậy là cô không biết mình đã đến nơi đó bằng cách nào? Cô chỉ thức dậy và thấy mình ở đó? Rồi cô đi ngủ, và thức dậy trên giường mình vào buổi sáng? (Phải) Và cô không bao giờ biết được khi nào mình sẽ đến đó lần nữa?

C: Không, chị không biết được.

Ngày càng rõ ràng là tôi không thể biết thêm thông tin gì về việc này nữa, vì cô ấy đã không rời khỏi căn phòng đó. Tôi kết thúc buổi thôi miên và đưa cô về trạng thái tỉnh táo hoàn toàn. Từ các dấu hiệu trên cơ thể và khuôn mặt cô ấy, có thể thấy rõ rằng cô đã ở trong trạng thái thôi miên rất sâu. Cô hoàn toàn không cử động. Chỉ khuôn mặt của cô là có biểu hiện. Ngay cả khi khóc, cô cũng không có cử động nào khác. Khi tôi bắt đầu đếm để đưa cô ấy ra khỏi trạng thái thôi miên, cô bắt đầu nhận thức được cơ thể vật chất của mình trở lại, và giật nảy lên rõ rệt. Sau khi tỉnh dậy, cô không nhớ được chút gì về buổi thôi miên nữa.

Sau khi cô ấy hoàn toàn tỉnh táo, tôi đã yêu cầu cô thực hiện một gợi ý tôi đã đưa ra, là vẽ một bức tranh về những đứa bé. Carrie là một nghệ sĩ chuyên nghiệp tài năng, và đã vẽ nhiều bức tranh về chúng sau những giấc mơ ban đầu. Bây giờ, cô ấy vẽ một bản phác thảo thô, mà sau này tôi so sánh với bản sao của các bản vẽ trước mà cô ấy đã gửi cho tôi. Có một vài điểm khác biệt mà cô đã giải thích khi vẽ bức phác thảo. Khi vẽ đến bàn tay của sinh vật trưởng thành, cô vẽ ba ngón thường, và nói rằng bàn tay dài gần bằng cẳng tay. Trong bức tranh cũ thì cô ấy đã vẽ bốn ngón tay. Lần này, cô nói rằng ba ngón tay có cảm giác đúng hơn, và cô sẽ để nó như vậy. Khi vẽ đến bức tranh về những cái lồng ấp, cô nói, “Lần này tôi bị thôi thúc phải vẽ thêm cái gì đó ở hai bên. Giống như thể có thứ gì đó đang kết nối chúng lại. Tôi đã không đưa nó vào bản vẽ ban đầu.” Khi vẽ những cái thùng và các ống nối, cô bất chợt rúm người lại và kêu lên, “Ô! Tôi vừa nhớ ra. Tôi đã cho tay vào thứ nước đó.”

Chúng tôi cười. Đây rõ ràng là một chi tiết mà cô ấy không nhớ ra trong “giấc mơ” ban đầu, và nó làm cô thấy ghê tởm. Bức vẽ cuối cùng của cô là về sinh vật mà cô đã thoáng nhìn thấy khi người phụ nữ kia mở cánh cửa. Sinh vật đó đang đứng ở đầu một cái cầu thang và có ánh sáng ở phía sau, nên cô không thể nhận ra các đặc điểm. Nhưng cô biết đó là một trong những đứa bé, ở dạng trưởng thành. Khi còn học đại học, cô đã vẽ một bức tranh về sinh vật trưởng thành này đứng trên đỉnh một cái thang xoắn ốc và đang nhìn xuống một nhóm người. Cô đã không biết ý tưởng đó đến từ đâu. Cô gọi bức tranh đó là “Địa ngục của Dante”, và cô đã giành được một giải thưởng với nó. Mặc dù đã giữ bức tranh trong vài năm, giờ đây cô không thể tìm ra nó. Khi cô ấy đang phác thảo bản vẽ cho tôi lúc này, cô có ấn tượng rằng đó không phải là cầu thang mà là một loại tia sáng nào đó (có thể ở dạng xoắn ốc, như trong bức tranh cô ấy vẽ bên trong một phi thuyền). Cô hứa sẽ gửi cho tôi bản sao của những bức tranh khác mà cô đã vẽ dựa trên trí nhớ, mặc dù giờ đây có vẻ rằng chúng tôi đã có nhiều chi tiết hơn so với các bức tranh lúc đầu.

Tôi rời nhà Connie lúc nửa đêm, với Carrie vẫn còn hỏi han về buổi thôi miên. Tôi nói với cô ấy rằng Connie sẽ phải nói cho cô về việc đó. Tôi phải về nhà, vì sáng hôm sau tôi phải lái xe đến Little Rock dự một buổi hội thảo. Tôi biết mình sẽ không về đến nhà được trước một giờ sáng, nhưng cũng đáng để được nói chuyện với người phụ nữ này.

Trong những năm kể từ sau sự kiện này, tôi được biết rằng một số nhà điều tra khác đã có được bản sao của bức vẽ về bọn trẻ. Một vài trong số họ nói rằng đó là một ví dụ về cuộc thử nghiệm lai tạo giữa loài người và người ngoài hành tinh, nhưng giả thuyết đó hoàn toàn đi ngược lại với những gì Carrie đã nói khi bị thôi miên. Cô khẳng định rằng những đứa trẻ không phải loài người, mà là người ngoài hành tinh. Bức tranh mà cô đã gửi tôi, vẽ về bên trong của một chiếc phi thuyền, cho thấy rằng trong suốt trải nghiệm kéo dài này, hẳn cô đã có lúc ở bên ngoài căn phòng đó. Tôi đã trình chiếu những bức vẽ này trong các buổi diễn thuyết của mình nhiều năm qua. Tôi đã luôn mô tả bức vẽ đó là về phần bên trong của một phi thuyền mẹ khổng lồ có nhiều tầng. Giờ đây khi viết những dòng này, tôi tự hỏi liệu có kiến giải nào khác hay không. Liệu cô ấy có thể đã ở trong một cơ sở thí nghiệm dưới lòng đất? Ý nghĩ này nảy ra trong đầu tôi vì cô ấy đã đề cập đến một môi trường kiểu quân sự, và thực tế là có một nhân viên khác ở đó có vẻ là con người. Cô chưa bao giờ nói nơi đó ở đâu, chỉ nói rằng mình tỉnh dậy đã ở đó. Cô không bao giờ nói được làm thế nào mình đã được đưa đến nơi đó. Tôi đã cho rằng đó là một phi thuyền mẹ, vì theo kinh nghiệm của tôi, đó là thứ duy nhất có thể hình dung ra mà đủ lớn để chứa được cả một cơ sở như vậy. Giờ đây, tôi lại tự hỏi.

Linh ảnh mà Carrie đã kể về một cảnh tượng thảm họa đã được lặp lại ở nhiều thân chủ khác, không chính xác từng chi tiết, nhưng cũng mô tả các kịch bản tương tự rằng một điều nghiêm trọng nào đó đã xảy đến cho Trái Đất. Tôi thậm chí đã gặp những ca tương tự ở nước ngoài khi thực hiện hồi quy về người ngoài hành tinh, từ những người không hề biết gì về “xu hướng” của người Mỹ trong lĩnh vực này. Thư từ gửi đến tôi cũng chứng minh thực tế rằng nhiều người đã có những linh ảnh tương tự, thông qua những giấc mơ sống động đến ấn tượng, những trải nghiệm xuất hồn, và đơn giản là những thấu ảnh lóe lên. Những cảnh tượng và linh ảnh đó đến từ đâu? Chúng có thực sự là những cái nhìn thoáng qua về tương lai? Hay chúng là những xác suất và khả năng xảy ra trên các dòng thời gian, như Nostradamus đã mô tả trong bộ ba quyển sách của tôi, Conversations With Nostradamus (Đối thoại với Nostradamus)? Nếu chúng là các tương lai khả thi, thì chúng có thể bị ảnh hưởng và thay đổi bởi tâm trí của con người. Đây phải chăng là lý do chúng được hiển lộ cho chúng ta?

Khi tôi gọi cho Carrie để xin phép sử dụng câu chuyện của cô ấy trong quyển sách này, cô kể với tôi rằng cô đã đến gặp một nhà tâm lý khoảng năm năm trước, vì một vấn đề cá nhân không liên quan. Trong những buổi trị liệu của họ, cô đã nói về giấc mơ kì lạ kia. Lời giải thích của nhà tâm lý là Carrie hẳn đã bị lạm dụng tình dục khi còn nhỏ. Đó phải là câu trả lời, còn việc Carrie không có kí ức gì về bất kì vụ lạm dụng nào không quan trọng. Carrie không thấy mối liên hệ nào và tôi cũng không, vì không hề có hàm ý nào về tình dục trong “giấc mơ” hay trong những linh ảnh. Một vài nhà tâm lý và bác sĩ tâm thần, khi đối mặt với điều gì đó bất thường, thay vì khám phá một kiến giải khác thì họ sẽ lại không đi chệch ra khỏi “sách vở”. Theo quá trình đào tạo của họ thì không thể có lời giải thích nào khác được.

Bức vẽ của Carrie về bên trong của một phi thuyền.

Carrie vẽ về hình dáng của người ngoài hành tinh.

Carrie vẽ về phòng nuôi trẻ bên trong phi thuyền.

Carrie vẽ một trong số những người ngoài hành tinh.

Carrie vẽ đứa bé ngoài hành tinh.

Một người bạn tôi, LeeAnn, là một trường hợp khác về thông tin bị ẩn giấu trong trạng thái tưởng là mơ. Cô ấy là một phụ nữ ở độ tuổi ngoài bốn mươi, dạy học ở Florida cho những trẻ em bị chứng gặp khó khăn trong học tập. Bố mẹ cô ấy là bạn cũ của tôi, và hàng năm cô đều đến Arkansas để thăm họ. Cô vốn đã quan tâm đến các hiện tượng siêu linh, và gần đây là vật lý siêu hình. Bố mẹ cô chẳng hiểu chút gì về những chủ đề này, nên khi cô đến thăm, chúng tôi đã dành nhiều thời gian với nhau để thảo luận về chúng. Năm đó, vào mùa hè năm 1988, chúng tôi vẫn theo thói quen của mình. Chúng tôi sẽ đến một nhà hàng trong khu vực, tìm một chiếc bàn trong góc, và nói chuyện hàng giờ liền, thường là đến tận khi họ đóng cửa. Bố mẹ cô không bao giờ hiểu được chúng tôi có thể nói những chuyện gì mà lâu như vậy.

Trong khi nói chuyện, cô ấy mô tả lại một số trải nghiệm kì lạ đã xảy ra khoảng sáu tháng trước đó. Cô nghĩ rằng chúng có thể là các trải nghiệm xuất hồn, nhưng cô ấy càng nói thì tôi càng nhận ra các dấu hiệu của một vụ UFO bắt cóc kinh điển. Trước vụ việc đó, cô ấy chưa từng đọc qua quyển sách nào về UFO. Còn sau đó, cô ấy đã đọc một quyển sách về Đội quân Ashtar (Ashtar Command, về một nhóm người tự nhận đã nhận được thông điệp của một sinh vật ngoài Trái Đất có tên gọi Ashtar – nd), và nghĩ rằng nếu các trải nghiệm của mình có gì liên quan đến người ngoài không gian, thì chắc chắn phải là kiểu người như thế này: những sinh vật tóc vàng mắt xanh xinh đẹp và nhân từ. Tôi muốn chắc chắn rằng cô ấy thực sự muốn khám phá sự việc đó, bởi vì tôi có cảm giác là nếu đó thực là một ca kinh điển, có thể một điều gì đó được khám phá ra sẽ làm cho cô ấy vỡ mộng. Cô rất hào hứng với việc thử nghiệm, rõ ràng cô ấy tin rằng đó sẽ là một trải nghiệm tuyệt vời. Vậy là chúng tôi sắp xếp thời gian, dành cả buổi chiều cho việc thôi miên.

Dì và cậu của LeeAnn cũng là bạn của tôi, những người chắc chắn sẽ không hiểu nổi bất cứ điều gì trong những chủ đề kì dị này mà cô cháu gái của họ đang quan tâm đến. Vì họ đang đi vắng, chúng tôi biết mình có thể đến nhà của họ mà không bị làm phiền. Chúng tôi ngồi xuống ghế trong phòng khách, và tôi để cho cô ấy kể lại những kí ức về trải nghiệm của cô nhằm mục đích ghi âm. Tôi luôn thích ghi âm lại cuộc phỏng vấn trước, để biết được các kí ức của ý thức. Nếu không, sau này đối tượng có thể nói rằng không có gì mới được hé lộ cả, rằng họ nhớ được tất cả mọi thứ. Phép thôi miên luôn bổ sung các chi tiết mà tại thời điểm xảy ra trải nghiệm chúng chưa được biết đến.

Cô ấy gọi đó là một giấc mơ, vì cô không biết còn có thể gọi nó là một cái gì đó khác, nhưng trải nghiệm đó có những tính chất không giống một giấc mơ.

Cô ấy nhớ được chính xác đêm nào và các hoàn cảnh nào dẫn đến sự kiện đó. Hôm đó, LeeAnn, Mike chồng cô, và Adam con trai của họ, dự định đến thăm bố mẹ chồng cô, nên cô ấy đang giặt đồ vào lúc tối muộn. Mike và Adam đã ngủ, còn cô ấy đang gấp quần áo trong phòng dành cho khách. Thứ đầu tiên cô nhận thấy là những bóng đen nhìn thấy qua khóe mắt. Cô đã nhìn thấy những thứ này một vài lần, và chúng không bao giờ có vẻ liên quan đến những vật bình thường có thể đổ bóng trong căn phòng. Chúng sẽ nằm trên sàn hoặc trên tường, luôn luôn ở tầm thấp. Mỗi khi cô thử tập trung nhìn vào thì chúng không ở đó nữa. Cô chỉ thấy được chúng khi liếc nhìn qua khóe mắt. Những bóng đen này đã được nhiều người kể lại, thường là khi bắt đầu một cuộc chạm trán với người ngoài hành tinh. Dĩ nhiên, người ta có thể liên tưởng chúng với bóng ma hoặc linh hồn, nhưng dường như chúng có mối liên hệ ngày càng nhiều với người ngoài hành tinh.

Tôi có một giả thuyết về việc này, nhưng hiện tại thì chưa thể chứng minh nó được. Càng ngày càng có nhiều suy đoán rằng người ngoài hành tinh và phi thuyền của họ đến từ một chiều không gian khác. Nếu thực là vậy, thì có thể những cái bóng đó là giai đoạn đầu khi họ bắt đầu tiến vào không gian của chúng ta và chưa được hoàn toàn hiện ra. Suy đoán của tôi được củng cố thêm khi cô ấy nhận xét, “Tôi lại nhìn thấy những cái bóng nhỏ đó, và tôi nghĩ, ‘Làm ơn để tôi yên tối nay. Tôi không muốn bị làm phiền.'” Nghe có vẻ như bất thường khi nói vậy mà không suy nghĩ, trừ phi tâm trí cô ấy liên tưởng những cái bóng với một dạng thực thể nào đó.

Sau khi gấp xong quần áo, cô đi tắm và quyết định đọc sách một lúc. Lúc đó là khoảng một giờ sáng khi cô nằm xuống để đọc, nhưng lại ngủ thiếp đi ngay lập tức. Cô ấy cho rằng mình đã nằm mơ, nhưng có vẻ đó là một trải nghiệm xuất hồn, vì cô đột nhiên thấy mình đang ở trên nhìn xuống cơ thể của chính mình.

“Điều thú vị và kích thích nhất là khi em nhìn về cơ thể của mình, em đang nhìn nó như nhìn một cái vỏ rỗng. Và em thực sự biết được cảm giác có một cơ thể không hồn là như thế nào. Nhìn thấy một sự hư vô hoàn toàn, một khoảng không hoàn toàn, một sự trống rỗng, và, lần đầu tiên, biết được chính xác cảm giác đó như thế nào. Em đã thực sự hào hứng về điều đó. Không phải là em đang ở hai nơi cùng một lúc. Em có thể thấy cơ thể của mình ở trên giường, nhưng em chắc chắn là mình đang không ở trong nó.”

Và rồi tình hình thay đổi. Cô ấy chợt cảm thấy khẩn trương, và phải trở về cơ thể của mình vì cô cảm thấy mình cần phải đứng dậy và đi vào phòng tắm. Cô đã quay về trong cơ thể của mình, nhưng trước khi kịp đứng dậy, cô nghe thấy một âm thanh lớn và chói ngay trong tai. Cô mô tả nó như tiếng của máy cưa gỗ, rít lên một cách chói tai. Một phần tâm trí đang còn nửa tỉnh nửa mê của cô cố gắng lập luận, “Đang lúc đêm hôm. Nhà hàng xóm ngớ ngẩn nào lại chạy máy cưa vào lúc này cơ chứ?” Cô nói rằng bạn phải xác định mọi thứ theo những gì mà bạn biết. Nhưng cô biết đó không phải lần đầu tiên cô nghe thấy âm thanh này. Có một cảm giác quen thuộc, như thể việc này đã từng xảy ra trước đây.

Trong những năm sau đó, tôi sẽ phát hiện ra nhiều ca khác mà đối tượng nghe thấy âm thanh của động cơ (thường là the thé) vào lúc bắt đầu có một trải nghiệm. Đây là một khía cạnh khác mà sẽ được xếp vào một dạng khuôn mẫu có thể dự đoán được. Nhưng tiếp theo đó cô ấy đã đưa ra những bình luận bất thường và làm cô khó chịu mỗi khi nhớ lại.

Cô có cảm giác cơ thể mình không còn nằm trên giường nữa, mà đang bị treo ngược ở bàn chân. Rồi cô có cảm giác vùng kín của mình đang bị chọc và đâm vào. Nó không như là cảm giác kiểu tình dục, mà giống như do một loại dụng cụ nào đó thì đúng hơn. Và cô lại thấy muốn đi tiểu. Một phần khác trong tâm trí cô đang nói, “Mình sẽ làm ướt cái giường này mất.” Cô nói, “Em có cảm giác như đang bị treo ngược lên, nhưng lại liên quan đến việc đi ngủ và ở trên giường. Em nghĩ, thật khác thường. Em muốn quay về cơ thể mình, vì em biết nếu không thì em sẽ làm ướt giường, và cái giường sẽ bị bẩn mất.”

Và rồi cô ấy có cảm giác có thứ gì đó (một loại dụng cụ) đang được đưa xuống cổ họng của mình, và cô bắt đầu nôn khan. Cô nghĩ, “Họ sẽ giết mình mất. Mình sẽ bị nôn đến chết.” Tiếp đó, một giọt chất lỏng dâng lên cùng với cảm giác khủng khiếp về bữa tối của cô ấy. Cô thực sự có thể ngửi được mùi buồn nôn của dịch mật. Rồi ý nghĩ, “Giờ mình biết cái giường sẽ thành một đống bẩn thỉu mất. Mình không chỉ sẽ làm ướt giường, mà mình còn đang nôn mửa ra nữa. Đây không thể là một giác mơ. Nó quá thực!” Khứu giác của cô nhạy đến mức việc đó hẳn đang phải thực sự xảy ra.

Thế nhưng cảm giác đó biến mất nhanh chóng như khi nó xuất hiện, và rồi cô lại thấy mình nằm trên giường. Cô muốn ngồi dậy, và cô nhìn về hướng cánh cửa kính trượt trong phòng ngủ. “Căn phòng được chiếu sáng, và ý thức của em nghĩ, ‘Ôi, sao căn phòng lại sáng thế này, trong khi mình biết bên ngoài đang tối đen. Tại sao lại có ánh sáng đó lọt qua cánh cửa trượt, trong khi mình biết là mình đã không để nó mở?’ Thế là em nhìn ra ngoài, hoặc em đã đi ra ngoài. Em không nhớ nữa. Đúng ra ngoài đó phải là sân trong và bể bơi có mái che, nhưng không. Nơi mà lẽ ra phải là bể bơi của em thì lại có một cái bàn. Và có một ánh sáng trắng, sáng rực. Thật đáng sửng sốt, vì em thực sự nghĩ là em đã ở trên giường trong phòng của mình. Thay vào sân và bể bơi thì lại là căn phòng sáng chói này. Và em nhớ đã nhìn thấy nhiều người. Họ có làn da nâu và không hề mặc áo gì cả. Và em đã nghĩ, ‘Chuyện gì đã xảy ra cho sân nhà mình vậy? Nếu đây là sân nhà mình, tại sao lại có những người ở trần này xung quanh cái bàn kia?’ Cứ như thể em đang quan sát mọi việc từ hai phần của tâm trí mình, và chúng đều chẳng có ý nghĩa gì cả.”

Đó là những điều cuối cùng cô còn nhớ được. “Em cảm thấy bình tĩnh hơn. Em cảm thấy mình đã hoàn toàn quay trở lại với cơ thể. Em biết là mình đã tỉnh lại, nhưng em không mở mắt ra ngay, vì em không muốn nhìn thấy gì cả. Em không biết mình đã nằm đó bao lâu, nhưng khi mở mắt, em thấy căn phòng đang chìm trong bóng tối như nó đương nhiên phải thế vào ban đêm. Và em nghĩ, “Chúa ơi, mình đã trở lại phòng rồi!’ Và em đang nằm sấp, trong khi em không bao giờ ngủ trong tư thế đó. Nhưng cơ thể em rất thư giãn. Em không nhớ được có bao giờ mình từng thức dậy với một tư thế dễ chịu như vậy hay không nữa. Và giường em không có chút gì lộn xộn. Không có bãi nôn ói, không nước tiểu, tấm đắp thẳng thớm như thể em không di chuyển chút nào. Và đồng hồ chỉ 3 giờ sáng, vậy là hai tiếng đã trôi qua. Em không hề cảm thấy muốn đi vệ sinh. Việc đầu tiên em làm là kiểm tra cửa trượt, và nó vẫn ở nguyên chỗ mà em đã đóng. Em kiểm tra con trai, và chồng em, vẫn đang ngáy trên ghế sa-lông. Mọi thứ đều bình thường. Em liền bật hết đèn lên, đi vào bếp và hút một điếu thuốc. Khi em ngồi đó trong bếp và hút thuốc, em nhìn lên trần nhà và nghĩ, ‘Trông nó đẹp đấy chứ? Cái thực tại vật chất này.’ Và em sờ cái bàn, ‘Ồ, cảm giác này dễ chịu đấy chứ? Cảm giác về một vật chất rắn chắc. Hiện diện ngay ở đây không tốt sao?’ Em đoán, em đã nghĩ đó là một trải nghiệm xuất hồn lạ lùng. Em đã nhận ra rằng thật tốt khi trở lại cơ thể, và thật tốt khi là một phần của thế giới này. Và cũng thật tốt khi có một cơ thể vật chất, và trân trọng cái cơ thể mà em đang có này. Đó là cảm giác của em khi Mike thức dậy và muốn biết em đang làm gì khi dậy vào giờ này. Và em nói, ‘Ôi, anh yêu, chỉ là em đã gặp một giấc mơ kì lạ.'”

Nếu đây là một cơn ác mộng do bệnh tiêu hóa hoặc dạ dày gây ra, tại sao khi tỉnh dậy cô ấy lại cảm thấy bình thường. Cũng không hề có dấu hiệu bị ốm hay nôn ói.

Càng bối rối hơn nữa là, nếu cơ thể cô ấy đã thực sự bị chọc và đâm vào, lẽ ra hôm sau cô ấy phải cảm thấy khó chịu ở những bộ phận đó. Thay vào đó, cô lại cảm thấy ổn, mặc dù bị bối rối. Vậy nên cô đã kết luận đó hẳn phải là một giấc mơ.

Sau khi thảo luận, chúng tôi vào phòng ngủ của người dì để làm thôi miên. Khi cô đã vào một trạng thái thôi miên khá tốt, tôi hướng dẫn cô ấy trở về nhà mình vào đêm xảy ra sự kiện, vào tháng Một năm 1988. Cô đang sống lại cảnh gấp quần áo. Cô nghĩ rằng thật thú vị khi cô đang thực sự được nhìn thấy cảnh này.

L: Em thấy được phòng ngủ. Em thấy được mình có những gì trong đó. Em thậm chí còn thấy được những bức tranh trên tường, chứ không phải chỉ nhớ được chúng. Đây giống như một kí ức, nhưng chị có thể hình dung được kí ức ư? Có phải nó là như thế này? Có một sự khác biệt giữa nhìn thấy và nhớ lại chứ.

Tôi phải gạt tâm trí cô ấy ra khỏi việc cố gắng phân tích tình hình, và tập trung vào việc chỉ tường thuật những gì cô đang nhìn thấy. Nếu đối tượng cứ tiếp tục phân tích, não họ sẽ chuyển sang khía cạnh phán xét, và thay đổi quá trình thôi miên. Tôi giải thích rằng chỉ tường thuật thôi sẽ giúp dễ nhớ hơn.

L: Nhưng thế thì em lại không tham dự gì vào đó cả.

D: Nếu em không muốn tham dự, thì em không nhất thiết phải làm thế. Em có quyền lựa chọn. Em có thể nhìn mọi việc như một người quan sát nếu em muốn. Tất cả là tùy em. Quyền kiểm soát là ở em.

Cô ấy tiếp tục mô tả căn phòng. Và rồi nhận thấy những cái bóng.

L: Chúng luôn chỉ ở gần sát mặt đất. Em không bao giờ thực sự có thể nhìn rõ chúng cả. Chúng không giống những cái bóng trên tường, những cái bóng đó thì cố định theo các đồ vật. Còn những cái bóng này chỉ dường như xuất hiện ở đó, rồi chúng nhanh chóng biến mất.

Sau khi gấp xong quần áo, cô muốn đi nằm vì đã mệt. Cô đi ngủ ngay lập tức, và khi tôi hỏi có phải cô ấy đã ngủ suốt đêm không, cô thì thầm, “Không”. Nhưng thay vì nói với tôi tại sao, cô bắt đầu tỏ ra căng thẳng. Các cử động trên mặt và cơ thể của cô cho thấy có điều gì đó đang xảy ra, nhưng cô không nói. Cuối cùng, cô thở dài và nói, “Em không muốn nhắc lại nó.” Tôi đưa ra những lời ám thị để làm cô ấy thoải mái và nhấn mạnh rằng cô hoàn toàn an toàn, và sẽ không sao cả khi cô ấy nhìn vào sự việc như một người tường thuật khách quan. Tôi nói như vậy mất vài phút để giúp cô ấy được tự tin. Cô thở sâu và không đều, và tôi biết điều gì đó đang xảy ra. Trong suốt khoảng thời gian này khi cô ấy không nói chuyện, cô cứ đưa tay ra và chạm nhẹ vào cánh tay tôi. Như thể cô muốn chắc chắn rằng tôi đang ở đó, và cô ấy không đơn độc. Cô tiếp tục hành động như vậy một cách đều đặn. Việc đó dường như giúp cô ấy biết rằng tôi thực sự đang ở đó và không bỏ rơi cô. Cô dường như bị cuốn vào những gì đang xảy ra, đến nỗi tôi bị mất tập trung khi đặt câu hỏi. Nhưng việc đó cũng giúp cô ấy chú ý trở lại đến tôi. Chắc chắn là cô đang quan sát và trải nghiệm điều gì đó, và không có động lực để nói chuyện. Cuối cùng cô bật ra, “Thật là điên rồ!” Tôi đảm bảo với cô ấy rằng tôi đã nghe thấy quá nhiều chuyện kì lạ, và bất kì điều gì cô ấy nói cũng sẽ không làm tôi ngạc nhiên. Tôi cố gắng thuyết phục cô ấy rằng nếu cô bắt đầu kể cho tôi nghe, mọi chuyện sẽ trở nên dễ dàng hơn.

L: Chị đang ở đó chứ? Ổn không?

D: Chị ở ngay đây. Và chị sẽ ở đây với em trong suốt quá trình này. Em sẽ không đơn độc. Dù câu chuyện nghe có kì lạ đến thế nào cũng không sao. Em đang nhìn thấy gì?

L: (Cuối cùng cô ấy cũng bắt đầu tường thuật.) Em đang ở trong. Em không ở nhà mình. Và họ đang nói chuyện, nhưng em không biết họ đang nói cái gì. Em không thích chỗ đó.

D: Trông nó như thế nào?

L: Chúng em đang ở trong phòng kín. Đó là một căn phòng. Em cũng chẳng thích mùi của nó chút nào.

Cô ấy làm những biểu hiện rõ ràng trên khuôn mặt như thể cô đang ngửi thấy thứ gì đó khó chịu và kinh tởm, như nhăn mũi, v.v… Khi tôi yêu cầu cô ấy mô tả lại mùi đó, cô rất khó khăn nhưng cũng quyết tâm để mô tả cho chính xác. Điều này càng khó hơn vì cô không thể nào liên kết chính xác cái mùi đó với bất kì thứ gì quen thuộc. “Không sạch sẽ. Thối rữa. Không giống mùi vật chết. Nó không như mùi phân ủ. Không giống cá ươn. Nó chỉ có mùi hăng, nếu đúng là từ này. Có mức độ thối rữa cao hơn, mặc dù nghe chẳng có nghĩa gì. Như là thối rữa nhầy nhụa. Nó không như bất kì thứ gì em đã từng ngửi thấy trước đây. Cũng không giống dịch mật. Còn tệ hơn dịch mật.” Cô làm một vẻ mặt chán ghét, và có vẻ không thoải mái với nó. Vì thế, tôi đã đưa ra ám thị rằng cô ấy sẽ không bị quấy rầy bởi mùi đó khi cô mô tả lại sự kiện. Bằng cách này, chúng tôi có thể ngăn không cho nó làm phiền cô ấy.

L: Đó là một căn phòng, nhưng không như em tưởng. Có người ở đó. Ừm! (Mỉm cười) Không phải là Ashtar.

Tôi muốn cô ấy tả lại những gì cô đang nhìn thấy, nhưng cô rơi vào im lặng và chỉ quan sát. Rõ ràng cô ấy bị căng thẳng vì điều gì đó cô đang chứng kiến. Tôi có thể phân biệt điều này rõ từ các cử động của mặt và mắt cô, hơn là từ các cử động của cơ thể. Hơi thở của cô to và không thoải mái. Cử động chính của cơ thể cô ấy là khi cô vươn ra để chạm vào cánh tay tôi, để yên tâm là tôi vẫn ở đó. Cô đang bị cuốn vào việc trải nghiệm bất cứ thứ gì đang diễn ra.

Đột nhiên cô ấy thốt lên, “Tại sao họ không dừng lại đi? Họ cứ chọc vào người em. Như là em cảm thấy nhiều hơn là nhìn thấy việc đó ấy.” Tôi cố gắng kiên nhẫn thuyết phục cô ấy nói cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra, và như thể việc tôi cứ hỏi han kéo sự chú ý của cô trở lại với tôi. “Đôi mắt của họ rất to,” cô nói với một tiếng thở dài. “Việc đó không như em đã hi vọng. Em đã mong rằng đó phải là một cuộc gặp gỡ mang tính tâm linh nhiều hơn. Một cuộc gặp gỡ có trí tuệ.” Sau một lúc dừng lại, cô tiếp, “Nó đã ngừng lại rồi. Giờ em nghĩ là em đang ở trên một cái bàn.” Rồi cô ấy bắt đầu mô tả những người ở trong phòng. “Đầu của họ có màu nâu nhạt, nhưng không phải màu be. Đúng hơn là màu rám nắng. Em đoán họ mặc một bộ quần áo, nhưng đầu họ luôn để trần. Cánh tay họ dài hơn tay chúng ta. Họ không cao. Họ không có nhiều lông. Nhìn họ giống với những người trong quyển sách Communion (tạm dịch, Hiệp thông), ngoại trừ việc họ có nhiều nếp nhăn hơn. Mắt của họ có hình như quả hạnh, và tỉ lệ với phần còn lại của gương mặt, mắt họ to. Lớn hơn mắt chúng ta, và không có tròng trắng. Con ngươi của họ rất lớn, và mống mắt rất tối màu, gần như màu nâu đen. Họ thực sự không có mũi, chỉ có những cái lỗ, và không có phần mở rộng hay bất cứ cái gì như vậy. Họ cũng chẳng có tai, chỉ có lỗ. Miệng họ không giống như chúng ta, không có môi hay răng.”

D: Họ có nhiều nếp nhăn hơn ở chỗ nào?

L: Cánh tay họ nhăn hơn. Và cổ họ cũng nhăn, như da thuộc. Chị biết, kiểu như mấy con chó có nếp nhăn ấy?

D: Như nếp gấp à?

L: Nếp gấp nghe hay đấy. Ở vùng vai họ không có nếp nào, nhưng hễ chỗ nào có khớp chuyển động thì có nếp nhăn. Ở khuỷu tay, và ở mặt trong cẳng tay.

D: Mặt của họ có nhăn không?

L: Không, mặt họ thì trơn và căng, mịn như thể một chiếc túi da loại tốt. Không phải mềm mại như làn da, mà trông như da thuộc, nhưng cổ của họ thì nhăn hơn, và gầy gò.

Cô ấy mô tả bàn tay của những người đó như có ba ngón tay: hai ngón thường và một ngón cái ở đối diện. Cô thử nhìn bàn chân họ. “Họ có khớp như chúng ta. Họ có vai, khuỷu tay và đầu gối. Nhưng bàn chân họ lại không như chúng ta. Chúng phẳng hơn. Chúng không nhô cao như bàn chân chúng ta, và gót chân rộng hơn. Và em không nhìn thấy ngón chân.”

Những điều này tương tự như các mô tả về bàn chân của những người ngoài hành tinh, rõ nhất là trong quyển Legacy From the Stars (Di sản của những vì sao). Trong quyển sách đó, chúng được mô tả như chân vịt hoặc như găng tay làm bếp: một cấu trúc phẳng, nhưng giữa các ngón không có màng dính. 

D: Ngón tay họ có móng không?

L: Em không nhớ. Nhưng nếu phải đoán thì em sẽ nói là không.

Điều này cũng như trong các báo cáo. Sinh vật này thường không có tóc, nên họ cũng sẽ không có móng. Móng được tạo thành từ cùng một cấu trúc tế bào như tóc, nên có vẻ như loại sinh vật này không có gen để tạo ra tóc.

L: Họ đang chọc vào người em. Em không hề thích việc đó một chút nào. Không hề. Giờ thì ổn rồi. Nó kinh tởm ở chỗ ta chỉ bị thúc và chọc vào, và bị mắc kẹt trong tình trạng đó. Nó còn tệ hơn so với khi chị đang mang thai và bị người ta chọc thúc vào người.

Tôi đã thử làm cho cô ấy nói cho tôi biết họ đã chọc và thúc vào ở chỗ nào, nhưng cô không thoải mái khi thảo luận về việc đó. Thế nên tôi đã hỏi liệu bọn họ có dùng thứ gì không, và cô ấy cố gắng mô tả những dụng cụ mà cô nhìn thấy. “Chúng lạnh, và trơn láng. Em đoán là như kim loại. Không phải như thép không gỉ. Chị có biết cảm giác khi chị đến chỗ bác sĩ phụ khoa, đôi khi các dụng cụ đều lạnh lẽo ấy? Nhưng những thứ này lại không phải dụng cụ của bác sĩ phụ khoa. Một cái thì dài như ống hút, với một cấu trúc gì đó ở phía cuối, như để cạo hoặc làm gì đó. Cái đó là để họ kiểm tra phần thân dưới.”

Sau đó LeeAnn mô tả nơi cất giữ các dụng cụ, “Có một khu quầy được làm từ một loại vật liệu màu trắng. Mọi thứ trong phòng đều được gắn âm vào tường. Chỗ quầy, các ngăn kéo, mọi thứ, đều trượt ra trượt vào từ mặt tường này. Nếu chị muốn đặt một đồ vật lên một cái gì đó, chị sẽ phải kéo cái đó ra từ tường. Em đoán họ làm như vậy để bất cứ khi nào họ di chuyển hoặc làm gì đó , nhất thiết không được có đồ đạc trong phòng. Mọi thứ đều được đẩy vào trong tường.”

Tôi yêu cầu cô mô tả các dụng cụ khác, nhưng cô ấy đã chuyển sự tập trung ra xung quanh. “Em không thích ở đây. Căn phòng này hình tròn. Trong phòng có ánh sáng. Em đã nói vậy à? Em không còn nằm nữa, nhưng khi chị nằm trên bàn thì có ánh đèn phía trên. Nhưng rồi họ lại treo ngược chị lên.” Đây rõ ràng là phần khiến cô ấy bị ảnh hưởng và cô không thể tả lại chuyện gì đang xảy ra. Bây giờ cô đã có thể kể cho tôi vì nó đã kết thúc rồi. “Chị có cảm giác như mình đang bị móc vào những cái bàn đạp lên ngựa. Và ở đó chị cảm thấy mình như một súc thịt. Bị treo từ chân, và đầu thì chúc xuống.

D: Một tư thế không thoải mái lắm nhỉ.

L: Không. (Ngừng lại) Trên người em không có quần áo gì cả. Em đã không mặc gì trên người khi họ làm như vậy. Nhưng giờ thì ổn rồi. Cái mùi kia cũng đã biến mất. Nó thật tệ, đó là một việc khác. Đó là ở một nơi khác, một căn phòng khác. Còn căn phòng này thì sạch sẽ.

D: Cái mùi đó đến từ nơi khác à?

L: Căn phòng đó không sạch sẽ, mặc kệ là nó ở chỗ nào. Còn căn phòng này thì sạch bong. Không còn bốc mùi nữa. Ngoại trừ… họ không nên làm vậy với người khác. Họ không nên chọc vào người. Ý em là, như thể họ chẳng tôn trọng cơ thể em một chút nào. Ha! Thật là một cú sốc lớn, LeeAnn! Mọi thứ lẽ ra không phải là thế này.

D: Có bao nhiêu người ở đó vậy?

L: Có một người thì chọc vào người em. Và có hai người khác – người? Ha! – chỉ đứng đó nhìn và nói chuyện. Nhưng em không biết họ đang nói cái gì.

D: Họ có phát ra âm thanh không?

L: Có, họ đang phát ra âm thanh, nhưng em thậm chí còn không thể tả lại thứ âm thanh đó. Có một cấu trúc âm điệu trong ngôn ngữ của họ, so với từ ngữ. Nó tương tự như nhạc điệu, nhưng kiểu nói của họ nghe có vẻ rỗng hơn. Như thể chị đang nói chuyện thông qua… (mô tả một cách khó khăn)… một cái máy thay thế cho dây thanh quản của chị. Nhưng đó là một âm thanh rỗng. Như thể chị đang truyền tiếng nói của mình thông qua một chiếc đàn ống, nhưng không phải là đàn ống. Một dạng âm thanh trống rỗng. Không phải máy tính. Một loại âm thanh cơ khí. Trống rỗng.

Tôi có thể hiểu được định nghĩa này, vì tôi có biết một người đàn ông đã dùng một chiếc máy để thay cho các dây thanh quản của anh ta, vốn đã bị cắt bỏ do ung thư. Tôi có thể hiểu được lời của anh ấy một khi tôi đã quen được với âm thanh đó. Nhưng nó tạo ra một hiệu ứng rung đơn điệu.

Mô tả này tương tự như lời của Penny trong quyển Legacy From the Stars (Di sản của những vì sao). Cô ấy cũng nói rằng mình đã nghe thấy các sinh vật phát ra nhạc điệu thay vì từ ngữ.

D: Tất cả bọn họ nhìn có giống nhau không?

L: Về cơ bản thì bọn họ nhìn giống nhau, chỉ có đôi mắt là khác.

D: Khác như thế nào?

L: Đôi mắt của họ khác nhau hoặc khuôn mặt của họ khác nhau, nói về sự nhạy cảm. Giống như tất cả người da trắng nhìn giống nhau, họ đều là người da trắng. Tất cả những người da đen đều có màu da đen. Có những điểm tương đồng, đúng không? Nhưng chị phân biệt người ta bằng mắt của họ, hoặc bất cứ cái gì khác. Và hiện giờ có những đôi mắt rất ôn hòa. Chị thấy đấy, giờ thì em cảm thấy ổn. Em không còn bị treo lên trên kia nữa. Và người mà em đang nhìn đây có đôi mắt rất ôn hòa. Cùng hình dạng, nhưng chúng… quan tâm hơn. Anh ta đã ở đó từ trước, nhưng chỉ theo dõi. Anh ta không phải là người đã làm cái việc chọc thúc vào người em.

D: Em có nhìn được họ làm gì khác không?

L: Có, em nghĩ là em nhìn thấy. Em không thích nói về việc đó.

D: Được rồi. Bây giờ chị chỉ muốn lấy hết thông tin, và em sẽ không phải làm việc đó một lần nữa.

L: Chúng ta sẽ không làm lại nữa, được chứ?

D: Đúng vậy.

L: Không, chúng ta sẽ không làm việc đó. Em sẽ nói về nó thay vì làm lại nó. Được chứ?

D: Em làm được mà. Chỉ cần kể chị nghe chuyện gì đã xảy ra.

L: Được rồi, em cảm thấy — không, em không cảm thấy — em nhìn thấy. Họ lấy mẫu phân. Và có vẻ như họ đang bắn một loại tia la-ze hoặc gì đó vào đó. Họ đang ở trong góc đằng kia. Không hẳn là một góc nữa, vì căn phòng hình tròn mà. Có âm thanh phát ra từ máy. Kiểu như âm thanh mà em đã nghe, nhưng không hoàn toàn giống như em đã nhớ. Nó có một tần số cao mà em đoán là loại tần số phát ra từ một chùm ánh sáng. (Đây có thể là tiếng cưa máy mà cô ấy đã nghe khi cô nghĩ cô đang ở trên giường mình.) Họ lấy mẫu chất thải. Em không thấy được họ đang làm gì với nó. Em không chọn nhìn thấy. Nhưng em nghĩ… cái gì đó nghĩ, “Tại sao phải bận tâm đến những gì họ đang làm? Như vậy để làm gì chứ?” Người tử tế kia, người đàn ông… sinh vật có đôi mắt ôn hòa nhạy cảm. Ít nhất họ còn có sự tôn trọng. Sau khi em được thả xuống khỏi tư thế treo ngược. Treo lên, em không thích điều đó. Anh ấy ở đó, ít nhất để giúp em bình tĩnh lại, không phải chỉ vì em cảm thấy lo lắng. Em chỉ cảm thấy kiểu như, “Tại sao họ lại làm những thứ bệnh hoạn này?” Và nó không phải như là bệnh hoạn biến thái. Nó giống như điều tra, em đoán vậy, về mặt khoa học, so với việc… (Cô ấy gặp khó khăn khi giải thích) xâm phạm. Nhưng ít ra cũng tốt là họ còn có sự nhạy cảm để trấn an chị sau việc kiểm tra.

Một cá nhân chu đáo tương tự như vậy cũng đã được những thân chủ khác nhìn thấy và đã được ghi lại trong các quyển sách khác của tôi. Họ thường mô tả sinh vật đó như là một dạng “y tá” giúp trấn an họ, đôi khi chỉ là với biểu cảm trong ánh mắt. Vài người nói rằng, mặc dù họ không phân biệt được giới tính, nhưng có một cảm giác nữ tính ở sinh vật đó.

D: Em nói họ mặc bộ trang phục à?

L : Phải, những người bốc mùi thì có. Họ mặc quần áo màu xanh. Những người khác ở trong phòng thí nghiệm thì mặc cùng một loại áo liền quần màu trắng. Đó là một môi trường vô trùng hơn. Áo của họ cũng có cổ áo cao, vì cổ của họ dài. Một phần cổ được che kín. Những nếp gấp nằm ở trên cổ áo. (Tôi đang hình dung ra cổ áo kiểu Tàu).

D: Em có nhìn thấy phù hiệu hoặc bất cứ thứ gì giống vậy trên áo họ không?

L: Để em xem. (Tạm ngừng) Chị đừng tin hết nhé. Đây là điều đã xuất hiện, được chứ? Đó là một hình tròn. Và phía trên tâm điểm là ba đường lượn sóng. Đó là một biểu tượng về bình an, em đoán vậy.

D: Biểu tượng đó nằm ở đâu?

L: Ồ, chị sẽ đeo nó trên ngực. (Tay cô ấy ra hiệu cho thấy nó nằm ở vai trái).  nghĩ nó ở trên những bộ đồng phục trắng.

Tôi chỉ thị cho cô ấy rằng cô sẽ nhớ được biểu tượng và có thể vẽ nó ra cho tôi khi cô tỉnh dậy. Sau đó, tôi muốn biết trong phòng còn bất kì điều gì khác mà cô ấy nhớ được hay không.

L: Trong phòng có ánh sáng. Em không biết ánh sáng đến từ đâu, ngọai trừ cái đèn chính từ phía trên cái bàn. Nó to và tròn, nhưng không phải là đèn huỳnh quang. Nó không tỏa nhiệt như loại đèn khi chị ở trong phòng nha sĩ. Chị biết cái đèn đó nóng như thế nào rồi đấy? Cái đèn này thì không nóng như vậy, hoặc giống như em tưởng tượng một bóng đèn trong phòng mổ tỏa nhiệt ra. Cái đèn này sáng tương tự vậy, nhưng chị không cảm thấy bất kì sức nóng nào từ nó. Căn phòng sáng, nhưng em không biết nguồn ánh sáng. Có vẻ như nó đang chiếu ra từ các bức tường, nhưng em không thấy được bất kì thiết bị chiếu sáng nào mà em có thể nhận ra, vì vậy em không biết được điểm trung tâm hoặc nguồn phát sáng.

Mô tả này đã được lặp lại trong những ca UFO khác, rằng nguồn sáng dường như đến từ trần và tường, như thể toàn bộ các bề mặt đều phát sáng.

L: Căn phòng này có một thanh được bắt vít vào tường, tương tự như kiểu thanh thép không gỉ để người khuyết tật bám vào. Không phải thanh ngang, mà là một cây cột chạy vòng quanh bức tường. Nó nhẵn như thép không gỉ, nhưng không lạnh. Các bức tường thì cong, như ở trong một căn phòng hình tròn lớn. Em nói là “lớn”, nhưng nó không thực sự lớn. Quy mô của nó không lớn. Nếu chị đang nằm và nhìn lên, có một nơi giống như phòng quan sát để người ta, hoặc các sinh vật, có thể nhìn xuống và quan sát những gì đang xảy ra trong phạm vi của phòng nghiên cứu này. Em muốn nói là nó được làm bằng kính. Nó trong suốt, nhưng có lẽ không phải kính. Nhưng là một vật liệu gì đó có thể ngăn chặn vi trùng phát tán, hoặc ngăn những thứ ngoài ý muốn tiếp xúc với bất cứ điều gì đang diễn ra. Gần như một phòng quan sát mà chị thấy trong bệnh viện. Nhưng trong các bệnh viện, em nghĩ rằng phòng quan sát được đặt ở xa hơn. Ở đây thì không giống vậy. Nó như các cửa sổ bằng kính, và đằng sau đó chị có thể thấy người ta đang đứng và quan sát. Nhưng không giống như trong bệnh viện mà chị thấy trên TV, có những sinh viên đứng xung quanh và quan sát. Nó không giống vậy.

D: Những sinh vật đằng sau tấm kính có cùng chủng loại với những kẻ trong phòng không? (Có) Em còn thấy được bất kì đồ vật gì khác trong phòng không?

L: Em muốn nói là… nó không phải một chiếc máy tính như chúng ta nghĩ, với bàn phím và màn hình. Nó không giống vậy chút nào. Có nhiều màn hình, em đoán thế, nhưng không như màn hình của chúng ta. Những thứ này ít nhiều được gắn liền vào tường để làm bất cứ công năng nào của chúng. Chúng dường như được làm từ cùng một kim loại đó, như thép không gỉ, và có các bảng và nút ở bên cạnh. Có nhiều trạm làm việc khác nhau quanh các bức tường trong phòng. Một trạm có một cái kính hiển vi trông vô cùng phức tạp, và bất cứ thứ gì họ đang làm việc đều được hiển thị lên màn hình phía trên đó. Một trạm khác có một cặp gồm thước kẹp và cánh tay đòn được cân bằng rất khéo léo để xử lý và làm việc với các vật siêu nhỏ, quá nhỏ để có thể dùng các ngón tay. Một loại công cụ thu nhỏ. Trên các tấm bảng có đèn màu. Và có âm thanh phát ra từ chúng.

D: Giống như tiếng máy chạy ấy à?

L: Không, không như máy móc của chúng ta. Tần sóng âm thanh kia cao hơn. Hẳn phải có một mối tương quan nào đó giữa âm thanh chị nghe được với những kiểu ánh sáng khác nhau xuất hiện, nhưng em không biết đó là gì.

D: Còn có âm thanh nào khác nữa không?

L:  m thanh? Có. Chị biết đó là gì không? Chính là âm thanh đó. Em đã nói những âm thanh trong phòng nghiên cứu này đều có tần sóng cao, như tiếng máy khoan của nha sĩ ấy. Còn âm thanh kia – mặc dù điều này có lẽ là vô nghĩa, nhưng dù sao em cũng sẽ nói ra. Cái tiếng cưa máy vo vo đó – nó là thật. Nó hẳn phải liên quan gì đó đến các động cơ hay gì đó. Đó là em đang nói theo ngôn ngữ của Trái Đất chúng ta.

D: Nhưng những cái máy tính khác thì đang phát ra một loại âm thanh khác à?

L: Ồ vâng!  m thanh đó thì có âm điệu hơn. Nó không thay đổi, nhưng nghe thì du dương hơn. Nó không giống như tiếng cưa máy.

D: Được rồi. Giờ chị sẽ hỏi em, em đã đến đó bằng cách nào? Em có thể chỉ cần quan sát thôi. Em không phải trải nghiệm việc đó một lần nữa. Làm thế nào mà em ở trong căn phòng đó? 

L : Em sẽ chỉ nói cho chị những gì em muốn nói nhé. Chị đừng chỉ tin hoàn toàn vào đó. Đây là điều duy nhất có vẻ có lý. Ý tưởng đã đến trong tâm trí em là em hẳn đã phải được dịch chuyển tức thời hoặc đưa lên bằng một phương pháp nào đó. Không phải kiểu có phi thuyền đã vào trong phòng ngủ của em và làm gì đó đâu. Không, một lần nữa em đang nhắc lại hiệu ứng chùm sáng. Nhưng em thậm chí còn không biết về nó nữa, bởi vì bây giờ cứ như thể em đang có hai tâm trí cùng làm việc vậy.

D: Chỉ nói bất cứ điều gì đến trong tâm trí em thôi. Đừng lo phân tích về nó.

L: (Thở dài) Việc đó như thể em đã được bắn thành tia sáng lên tàu thông qua một cách nào đó. Nhưng cơ thể vật chất không phải là bị phân giải như trong phim Star Trek (Du hành giữa các vì sao). Chắc hẳn đó phải là một loại hiệu ứng chùm sáng nào đó, em đoán vậy, vì em đang nghĩ đến các thực tại vật lý, như là kết cấu của căn nhà chị chẳng hạn, và nghĩ về việc quay trở lại. Hẳn là họ đã bao phủ cơ thể của chị bằng chùm sáng vật lý này. Và có thể là phá vỡ cấu trúc phân tử của cơ thể, để nó có thể được bao bọc. Để nó không còn ở dạng rắn nữa. Và rồi chùm sáng làm gì đó với dạng rắn của cơ thể, và lấy đi toàn bộ cấu trúc phân tử qua chùm sáng.

D: Đừng lo lắng về việc nó có nghĩa hay không. Đây là những gì đến trong tâm trí em, và đó chính là thứ chúng ta đang làm việc.

L: Đây là những gì đến trong tâm trí, phải rồi.

D: Vậy là suốt thời gian ở đó, em chỉ thấy những sinh vật trông giống nhau đó thôi à?

L: Em muốn nói là đã có hai nhóm sinh vật. Nhóm thứ hai là những kẻ thực hiện thí nghiệm. Nhóm đầu tiên là những kẻ mặc đồng phục xanh. Họ trông giống bọ hơn. Cơ thể của họ không cùng kích cỡ với những sinh vật kia. Họ không có lồng ngực. Họ cao hơn, gầy hơn, và dẹt hơn. Và những phần phụ của họ dài hơn.

D: Giống bọ, ý em là sao?

L: Họ không giống những sinh vật kia. Mắt họ lồi ra, và nằm ở hai bên đầu. Đôi mắt chiếm gần hết phần đầu họ, như một con bọ vậy. Em không nhớ có nhìn thấy mũi hay miệng không, nhưng em đoán rằng họ hẳn phải có miệng. Và họ không có lồng ngực. Chị biết đấy, những kẻ kia thì có lồng ngực, như chúng ta có lồng ngực, với một cấu trúc xương. Về mặt cấu trúc, những kẻ này thì giống như một loại… em muốn nói là “bọ ngựa” hoặc “gậy di động” to lớn. To như một người cỡ như chúng ta. Và yếu ớt — nhưng em nghĩ họ không thể nào yếu ớt như kiểu một con bọ ngựa mỏng mảnh được. Đó là một loại sinh vật trông xám xịt, vẻ ngoài như côn trùng, với những cánh tay dài lênh khênh. Không có hình hay dạng gì giống loài người cả.

D: (Tôi đang cố gắng có thêm diễn tả). Đầu của họ có trọc luôn không?

L: Không, đầu họ thì khác. Nó giống một con ruồi hơn. Đen đen, nâu nâu, tóc thẳng và dễ gãy, nhưng không có nhiều tóc. Như một con ruồi có lông trên chân nó ấy. Tóc khô và dựng thẳng đứng, chứ không mềm. Chị biết đấy, với những đôi mắt kì dị trọc lốc đó như loại chị thấy trong phim ấy, với những phần phụ treo lơ lửng.

Diễn tả này khớp với sinh vật mà Phil đã trông thấy trên một phi thuyền, trong quyển sách Keepers of the Garden (Những người Gác Vườn) của tôi. Loại sinh vật này cũng được những người đã bị bắt cóc khác nhìn thấy. Một loại tương tự được Beverly kể lại trong Chương 5.

L: Những người này – họ chẳng phải người – thậm chí còn không có vẻ đã… tiến hóa. Em không nói được ý của mình. Họ không có vẻ có trí thông minh. Họ có vẻ giống loài bọ hơn. Người máy, từ này đúng đấy. Một người máy.

D: Em đã thấy họ ở đâu?

 L: Họ đã tham gia ngay từ lúc đầu, em đoán vậy. Em nghĩ họ chính là những kẻ có cái mùi đó. Hẳn là họ. Họ hẳn là một dạng sinh vật bậc thấp như thế nào đó, được sử dụng cho một mục đích nhất định. Những sinh vật này đã có mặt ngay từ lúc bắt đầu nghiên cứu, mà em đã không nhớ ra trước đây. Như kiểu chị đang kể chuyện cho người khác, và rồi một chi tiết đã xảy ra từ đầu chợt xuất hiện. Chà, họ đã ở đó từ đầu. Em muốn nói là họ giống như những kẻ tuyển dụng (Cười khẽ).

D: A, từ đó nghe thú vị thật.

L: Và họ đã đưa em qua một hành lang và vào căn phòng bốc mùi. (Cô ấy lại nhăn mũi.) Ngay lúc này, em thoáng có ấn tượng về… cơ sở của họ, em đoán vậy. Em không biết vì sao mình lại ở đây nữa. 

D: Trông nơi đó như thế nào?

L: Em có thể nói cho chị… nếu cái mùi này chỉ cần… (Nó lại làm phiền cô ấy lần nữa.)

Tôi liền đưa ra chỉ thị rằng mùi đó sẽ không làm phiền cô ấy nữa trong khi cô nói về các sinh vật.

L: Nó vừa vặn giúp chị tập trung được sự chú ý. Bây giờ em thậm chí còn không ngửi được mùi đó nữa. Ở đó thật tối. Không giống như căn phòng kia. Căn phòng này tối và… ẩm ướt. Nhưng làm sao nó có thể ẩm ướt được nhỉ? Em không hiểu, nhưng em cảm thấy như vậy. Em thấy… em đoán đó là trang phục. Một loại bộ trang phục nào đó. Chúng nằm trên sàn, giống như quần áo lính cứu hỏa ấy. Chị biết đấy, khi chúng ta hay đến sở cứu hỏa khi còn nhỏ, và cánh đàn ông luôn chất đống giày bốt và tất cả mọi thứ. Tất cả quần áo đó đều chất thành đống, nhưng không có giày bốt thực sự. Quần áo này được làm từ một loại vải nào đó, nhưng nó giống vật liệu làm từ dầu mỏ hơn.

D: Đó là thứ duy nhất em có thể thấy trong phòng à?

L: Vâng. Em đang ngồi trong đó được một lúc.

D: Em vẫn mặc quần áo trên người khi ở trong đó chứ?

L: Vâng, em có. Em mặc quần áo ngủ. Ha! Em đã mặc một cái áo ngủ, trên đó có dòng chữ, “Bạn không thể đánh chìm cầu vồng.” Thật buồn cười. (Cười khẽ).

D: Vậy đó vẫn là cái áo em đã mặc khi lên giường. Được rồi. Hãy trở lại trải nghiệm kia nào. Ít nhất sau đó cũng đã có một sinh vật tử tế. Anh ta có làm gì hay trao đổi gì với em không?

L: Có, anh ta đã vuốt nhẹ cánh tay em, chạm vào mặt em, và nhìn vào mắt. Em đoán là để trấn an. Em nghe… em có thể cảm nhận những âm thanh. Không, anh ta không nói chuyện. Khi trấn an em, anh ta thậm chí không phát ra kiểu lời nói kì dị như trước đó.

D: Đó có phải là tất cả những gì đã xảy ra ở đó chưa? (Cô ấy thở dài). Chị nghĩ vậy là đủ rồi. (Cười khẽ).

L: Vâng, em nghĩ. Em không muốn nhớ lại thêm chút gì nữa.

D: Điều đó hoàn toàn ổn. Nhưng rồi em được đưa trở lại à?

L: Vâng. Em đã được đưa về như thế nào à? (Ngừng lại) Giờ thì em và bọn họ đang giao tiếp, khi em đang đứng đó trong căn phòng trắng của họ, và em lại thấy mình mặc áo ngủ trở lại.

D: Cuộc đối thoại là về cái gì?

L: Em không biết. Em có thể nhìn thấy chính mình, và em thấy hài lòng. Và hiện giờ em cảm thấy ổn. Em không nhớ.

D: Nó có quan trọng không?

L: Em không biết. Em hi vọng là không.

D: Nếu nó quan trọng thì siêu thức của em cũng sẽ nhớ được nó thôi.

L: Nó ít nhiều là về… em sẽ nói ra. Em không biết liệu nó có đúng hay chính xác không. Một lời tạm biệt và, vâng, “Chúng ta sẽ gặp lại nhau.” Một kiểu thỏa thuận.

D: Được rồi. Nhưng sau đó em được đưa về phòng mình như thế nào?

L: Em đang đi cùng với người đàn ông tử tế kia qua một hành lang. Và đi qua chỗ bốc mùi nữa. Và giờ chúng em đã ra khỏi căn phòng hôi thối. (Ngừng lại) Em không thể nhớ được. Em thậm chí không thể thấy được điều đó. Nhưng nó hẳn phải cùng là một kiểu chùm sáng kia, bất luận nó là gì.

D: Em có nghĩ em đã quay về phòng mình bằng cách đó không?

L: Em không biết cách nào khác. (Cười khẽ) Em chắc chắn là phi thuyền đã không đáp xuống ngay nhà em.

D: (Cười) Em có nhớ mình có thấy được bên ngoài phi thuyền không?

L: Em có thể thấy nó ngay lúc này. Nó – không tròn – nó giống hình elip hơn. (Phác tay) Chỗ này sẽ là hình elip, phía dưới thì tròn hơn. 

D: Nhưng rồi cuối cùng em đã trở về phòng mình, và mọi thứ đều ổn, đúng không? (Cô ấy thốt lên một câu cảm thán tích cực.) Vậy là nó cũng không quá tệ. Nó đã kết thúc rồi. Em cảm thấy thế nào về việc đó?

L: Bây giờ à? Khi em xem lại trải nghiệm đó thì em đã không thích gì nó. Và em không thích cả việc nghĩ đến nó. Nhưng giờ đây nghe em có vẻ tức giận, đúng không ?

D: Một chút.

L: Nhưng khi em lui lại và quan sát, sau khi nó đã kết thúc rồi thì em không còn tức giận nữa. Em cảm thấy như thế nào về nó ư? Chị có thực sự muốn biết không? Em nghĩ là em đã tưởng tượng ra toàn bộ chuyện này.

D: (Cười) Nhưng nếu nó có thể đã thực sự xảy ra thì em có thấy phiền lòng không?

L: Nó có làm phiền em không à? (Trầm ngâm.) Không.

D: Chị đã nghĩ rằng đó chính là lý do họ không để em nhớ được, vì họ không muốn em bị rối trí ngay lúc đó và sau đó.

L: Đúng vậy thật.

Sau đó tôi đưa LeeAnn trực tiến và định hướng cho cô ấy. Trước khi đánh thức cô, tôi đã đưa ra nhiều hướng dẫn hướng về sự an lạc để trải nghiệm này sẽ không làm phiền lòng cô ấy.

Sau phiên làm việc, chúng tôi uống một ly và thư giãn một chút trước khi tôi đưa cho cô ấy một tấm bảng và yêu cầu cô vẽ ra những gì cô nhớ được. Cô ấy xin lỗi vì cô không vẽ được như họa sĩ.

Bức vẽ bảng thiết bị, kính hiển vi và thước kẹp, của LeeAnn. Nhiều đối tượng khác cũng đã nhìn thấy cảnh tương tự: bảng điều khiển và màn hình gắn trên các bức tường hình vòng cung, các thiết bị có cần điều khiển để thao tác trên các vật thể nhỏ, kính hiển vi phóng chiếu các tế bào, v.v… lên màn hình lớn hơn. Các bản đồ sao thường được nhìn thấy trên màn hình.

PHÙ HIỆU PHI THUYỀN

Bức vẽ của LeeAnn về phù hiệu và phi thuyền.

LeeAnn nhận xét một cách mỉa mai, “Chuyện gì đã xảy ra với Ashtar? Em thà là du hành với Ashtar cơ.”

Chúng tôi cười, và tôi biết là cô ấy sẽ ổn, mặc dù trải nghiệm này không như cô đã kì vọng. Sau đó, cô ấy dành khá nhiều thời gian để tìm cách xác định cái mùi kinh khủng vẫn còn vương lại trong trí nhớ của mình. Điều đó có vẻ khiến cô ấy bận tâm, và cô quyết tâm tìm cho ra một cách so sánh nào đó. 

“Cái mùi đó… không như bất kì thứ gì em đã từng ngửi qua. Chị biết trứng thối bốc mùi ra sao đấy. Nó không giống vậy, bởi vì nó giống như mùi lưu huỳnh. Nó không phải chất hữu cơ. Chị biết những thứ hữu cơ bốc mùi khủng khiếp như thế nào khi chúng thối rữa ấy. Còn đây là một mùi khác. Mùi này như… mùi khét… giống kim loại. Chúng em từng sống ở Chicago ngay cạnh các nhà máy thép. Và mùi này làm em nhớ đến cái mùi khi họ nung kim loại. Nó giống như mùi kẽm. Kẽm đốt nóng thì có mùi như thế nào?”

Tôi không có ý kiến. “Chị không biết. Nhưng nó có giống mùi khét không?”

“Không phải khét! Nó giống mùi thối và chua, nhưng giống như nó có liên quan đến kim loại. Em muốn nói là kẽm. Nó cứ nhảy vào đầu em. Nhưng em không biết kẽm sẽ có mùi thế nào nếu chị đốt nó. Hoặc như đá phiến. Đá phiến sẽ có mùi thế nào khi chị đốt nó? Nhưng nó không giống như mùi xác chết đang phân hủy. Nó không giống mùi rác hay bất cứ thứ gì hữu cơ. Nó không như mùi lưu huỳnh. Em vẫn muốn nói là nó giống kim loại hơn là hữu cơ.”

“Nếu nói thế này có thể an ủi em được chút nào, người khác cũng đã ngửi thấy những mùi lạ, và họ cũng đã gặp khó khăn để diễn tả nó.”

Một mùi kinh tởm đã được kể lại trong ca đầu tiên mà tôi từng điều tra. Người phụ nữ, Christine, đã gần như phát bệnh khi cô vừa vào một phi thuyền. Cô ấy đã bị choáng bởi một thứ mùi mà cô khó diễn tả được. Thứ gần nhất mà cô có thể tả ra là mùi đó làm cô nhớ đến một thứ đồ điện đang bị đốt, như một động cơ bị cháy. Cô ấy không nghĩ rằng cái mùi đó đến từ chính những sinh vật, mà cho rằng nó đến từ một căn phòng đặt nguồn năng lượng. Khi cô hỏi về nguồn năng lượng, họ nói rằng cô ấy sẽ không hiểu được trừ phi cô có kiến thức về điện từ và các cấu trúc tinh thể. Không có cách hiển nhiên nào để mở cánh cửa dẫn đến căn phòng đó cả.

Nhưng cô đã thấy những sinh vật đó lướt tay qua một số cái điều khiển nào đó, và cửa được mở, các đồ vật di chuyển. Đương nhiên, không có cách nào để biết được liệu hai người phụ nữ này đã ở trên cùng một kiểu phi thuyền hay không, nhưng kì lạ là họ đều cùng mô tả một thứ mùi khó chịu.

LeeAnn giải thích với tôi vì sao cô ấy đã gặp khó khăn và ngần ngại khi diễn tả lại các sự kiện cho tôi vào đầu buổi thôi miên, khi cô đang trải qua cuộc kiểm tra cơ thể. “Nó giống như là em không muốn dính dáng vào. Em sẽ thoáng thấy một cảnh của sự kiện đó hoặc biết được chuyện gì đang xảy ra. Giống như có một mặt khác trong em đang nói, ‘Bạn không muốn làm vậy đâu. Bạn sẽ không nhớ lại chuyện đó nữa.’ Có một lúc nó như là, ‘Ôi, hãy đưa tôi ra khỏi đây.’” Cô ấy cười khúc khích.

Tôi giải thích, “Cơ chế an toàn trong siêu thức của em sẽ làm vậy nếu nó cho rằng em chưa sẵn sàng để nhìn vào sự kiện đó.”

Cần lưu ý rằng LeeAnn đã tiến vào buổi thôi miên với kì vọng về một trải nghiệm hoàn toàn khác, và nó làm cho lời giải thích của tôi có căn cứ hơn. Nếu cô ấy chỉ tưởng tượng viển vông hẳn cô đã ở trên phi thuyền với Ashtar tóc vàng mắt xanh rồi. Cô ấy hẳn không mơ tưởng đến một việc khó chịu như vậy.

Vài ngày sau, tôi đã gặp lại LeeAnn lần nữa trước khi cô ấy trở về nhà ở Florida. Sau đó, tôi đã viết lại phần lớn cuộc hội thoại của chúng tôi khi tôi vẫn còn nhớ được nó.

Cô ấy nói rằng mình đã dành thời gian suy nghĩ kĩ càng về buổi thôi miên. Nó như thể hai phần não bộ của cô đang đấu tranh với nhau. Điều đầu tiên cô ấy nói là cô muốn xin lỗi tôi. Tôi ngạc nhiên, cô ấy phải xin lỗi tôi vì điều gì mới được chứ? Cô nói xin lỗi vì đã nói với tôi tất cả những lời dối trá và bịa ra câu chuyện kì quặc đó. (Tôi biết rõ hơn, nhưng tôi cứ để cô nói.) Rồi cô ấy nói, một phần khác của cô muốn biết vì sao mình lại bịa ra một câu chuyện biến thái như vậy. Cô ấy đã mong đợi có một trải nghiệm đẹp đẽ. Nếu không được là một trải nghiệm mang tính tôn giáo, thì ít nhất cũng phải có tính trí tuệ. Cô lập luận rằng điều này cho thấy cô ấy hẳn là một kẻ biến thái và bệnh hoạn thì mới có thể nói dối và bịa ra những chuyện kinh tởm như vậy. Cuộc tranh đấu nội tâm này của cô ấy kéo dài trong hai ngày. Nhưng giờ đây cô đã cảm thấy tốt hơn. Cô đã đi đến kết luận rằng, không, cô không biến thái, và không, cô không bệnh hoạn. Cô biết mình vẫn bình thường. Nhưng câu hỏi vẫn ở đó, “Điều đó đến từ đâu vậy? Nó có ý nghĩa gì? Nó có thực không?”

Tôi đã nói với cô ấy rằng cô đã mong đợi để mơ mộng và có một trải nghiệm thú vị. Câu chuyện thực sự đã là một cú sốc với cô. Để cô ấy có thể vẽ ra một câu chuyện biến thái bệnh hoạn như được thừa nhận, lẽ ra cô đã có cảm giác thích thú hoặc phấn khích với sự biến thái đó, nhưng thay vào đó cô chỉ cảm thấy ghê tởm. Đối với tôi, điều này củng cố thêm tính xác thực của trải nghiệm và xóa tan giả thuyết rằng đó chỉ là tưởng tượng. Một ý tưởng nữa, mà sau này mới nảy ra trong đầu cô, là có khả năng một điều tương tự cũng đã xảy đến với con trai cô. Ý nghĩ này làm cô ấy cảm thấy đau thắt trong bụng. Như thể, “Mình làm mẹ kiểu gì mà không thể bảo vệ được con mình.” Và, “Loại sinh vật nào mà lại muốn làm tổn thương một đứa trẻ chứ.” Cô cũng tự vấn về tâm lý của đứa bé và về bất kì sang chấn nào có thể đã xảy đến với tiềm thức của nó. Chúng tôi đã thảo luận về chủ đề này một lúc lâu. Tôi đã nghi ngờ liệu con trai cô ấy đã có liên can hay không, do những ca khác mà tôi đã điều tra. Tôi đã không đề cập đến khả năng này với cô ấy vì tôi không muốn làm cô lo nghĩ. Cô ấy đã tự mình đi đến kết luận này. Điều quan trọng là con trai cô có vẻ không có bất kì kí ức nào trong ý thức về việc này, và tốt hơn là ta cứ để yên như vậy.

Khoảng một tháng sau đó, cô ấy từ Florida gọi cho tôi và dành gần cả tiếng đồng hồ để thảo luận về tất cả những điều này. Cô vẫn gặp khó khăn trong việc xử lý sự kiện đó và đặt nó vào đúng chỗ. Người duy nhất được cô kể cho nghe trải nghiệm này là một người bạn tâm lý gia, người đã trấn an rằng cô vẫn bình thường, và rằng đó chỉ đơn thuần là chuyện tưởng tượng. Khi LeeAnn hỏi vì sao trải nghiệm đó lại khó chịu với cô như vậy, người bạn kia giải thích đó là do nền giáo dục Công giáo nghiêm khắc của cô, và chắc chắn cô đã bị gieo vào đầu ý nghĩ rằng tình dục là dơ bẩn. Tôi thấy đó là một lời giải thích thú vị, vì sự kiện đó đã không nhất thiết tập trung vào các bộ phận sinh dục của cô. Dĩ nhiên, LeeAnn không chấp nhận lời giải thích đó.

LeeAnn còn nhắc đến một hậu quả bất thường khác. Một ngày nọ, khi đang ở trung tâm thành phố, cô ấy nhìn vào một tòa nhà trắng lớn có cửa kính tối màu – khá phổ biến ở khu đó của Florida do khí hậu nóng. Khi nhìn lên tòa nhà đó, hình ảnh căn phòng màu trắng với cửa quan sát hiện lên trong đầu cô. Và một lần nữa cô lại nghĩ về những sinh vật trên đó đang quan sát mình. Rồi cô tự nhủ rằng điều đó thật điên rồ. Khi nhìn lên tòa nhà một lần nữa, cô chỉ còn thấy những người đang tập thể dục ở đằng sau cửa kính.

Tôi nghĩ rằng cô ấy sẽ bắt đầu đặt trải nghiệm đó vào đúng chỗ và giải quyết nó. Đó chỉ là một ý tưởng thật kì lạ và mới mẻ. Cô ấy là một người thông minh và rất điềm tĩnh, và cô hẳn có thể xử trí việc này mà không có vấn đề gì. Nhưng cô vẫn chưa thể tự mình nghe lại băng ghi âm (Cũng giống những người khác mà tôi đã làm việc cùng). Tôi nói với cô điều này cũng bình thường, và rồi nó sẽ qua thôi.

LeeAnn gọi lại lần nữa khoảng một tuần sau đó, khi đêm đã khuya. Điều đầu tiên cô ấy nói là, “Nói cho em sự thật đi. Có thật là chuyện đó đã xảy ra với em không?” Đây là một câu hỏi khó. Nó cần được trả lời một cách cẩn thận để không ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của cô ấy. Tôi nói với cô, rất khó để diễn tả thế nào là thực tại. Tôi đã nói chuyện với cô ấy một lúc lâu về chủ đề này, và nói với cô rằng chuyện đó có thật hay không đằng nào cũng không thực sự quan trọng. Điều quan trọng là kí ức đó ảnh hưởng đến cô như thế nào. Cuối cùng cô ấy quyết định rằng mình sẽ không đọc thêm bất kì quyển sách nào về UFO nữa. Cô sẽ chỉ dính lấy những quyển sách vật lý siêu hình một thời gian, bởi vì có lẽ cô đã nghĩ về việc đó quá nhiều và vùi đầu vào nó. Tôi đồng ý rằng tốt nhất cô nên gạt chuyện đó ra khỏi tâm trí. Cô ấy sẽ đi nghỉ mát ở Canada, và tôi thấy như vậy là hoàn hảo. Cô còn nói cô đã có một cơn ác mộng vào đêm hôm trước và nó cũng có vẻ rất thật. Vậy nên cô tự thuyết phục mình rằng nếu như cơn ác mộng đó (mà cô chắc chắn đó chỉ là một giấc mơ) mà có vẻ thật như vậy, thì buổi thôi miên kia cũng chỉ liên quan đến một giấc mơ mà thôi. Không hơn, không kém. Tôi nói nếu như vậy làm cô ấy cảm thấy khá hơn thì đó là cách nhìn nhận đúng đắn. Đây cũng là cách Phil đã chọn để đối phó với trải nghiệm của mình, chỉ đơn thuần tin rằng anh đã có một trí tưởng tượng phong phú.

Các lời diễn tả của cô ấy về cuộc nghiên cứu cho thấy trải nghiệm này không phải lúc nào cũng chỉ xoay quanh các bộ phận sinh dục như các ca về lấy tinh trùng và trứng. Các sinh vật đó còn nghiên cứu cả chất thải (phân và nước tiểu) và thức ăn chưa tiêu hóa hết.

Có lẽ đây là nguyên do của việc treo ngược người lên, để dễ đưa thức ăn ra khỏi dạ dày hơn. Mặc dù chúng ta thấy khó chịu, nhưng đối với bọn họ nghiên cứu những thứ này có thể lại có giá trị khoa học chân chính. Chúng ta không thể đánh giá những gì mà ta không hiểu hết được. 

 

Những trường hợp dị thường như thế này đã tiếp tục trong nhiều năm. Vào cuối những năm 1990, tôi đã đi đến nhiều nước và điều tra những vụ đã được các nhà điều tra và tâm lý gia khác sàng lọc qua. Tôi không bao giờ biết trước được mỗi ca sẽ dẫn đến điều gì, và vào năm 1997, tôi đã trở nên thành thạo trong việc phát hiện ca nào chỉ là tưởng tượng hoặc chỉ do các cá nhân tìm kiếm sự chú ý. Edith là một trong những người tôi đã làm việc cùng vào tháng 11 năm 1997 ở miền Nam nước Anh. Khi phỏng vấn lần đầu, người ta xác nhận rằng gần đây cô ấy đang bị chứng cuồng ăn. Mặc dù cô đã khẳng định rằng vấn đề đó không còn nữa, bác sĩ của cô lo lắng vì công thức máu của cô vẫn quá khác thường. Tôi nghi ngờ rằng Edith có các vấn đề tâm lý, và ý nghĩ này càng được củng cố khi cô ấy giải thích lý do gây ra chứng cuồng ăn của mình. Cô ấy đang ở độ tuổi bốn mươi (mặc dù trông cô không có vẻ già như thế), con cái đã lớn, và vừa kết hôn với một chàng trai trẻ ở độ tuổi hai mươi. Những người thân của cô dường như là nguồn gốc của nhiều vấn đề của cô ấy, bao gồm cả chuyện này. Họ mắng mỏ và chỉ trích cô, nói, “Anh ta thấy gì ở một bà già như cô chứ?” Cô vốn đã có sẵn vấn đề về lòng tự trọng, phản ánh ra ở việc cô không giữ được việc làm. Những lời nhận xét này không giúp ích được gì, nên cô đã trở nên cuồng ăn với hi vọng làm cho mình quyến rũ hơn. Cá nhân tôi không thấy được mục đích của việc làm này, vì chàng trai kia đã yêu cô vì chính bản thân cô. Tại sao cô cảm thấy cần phải thay đổi? Tôi cho rằng cô cần được tư vấn tâm lý nhiều hơn là những gì tôi có thể làm cho cô, nhất là trong khoảng thời gian có hạn mà tôi sẽ ở bên cô ấy. Mối quan tâm chính của tôi là việc cô ấy tin rằng mình đã có trải nghiệm với UFO và người ngoài hành tinh. Đương nhiên, với bất kì công việc nào kiểu này, bạn cũng phải xem xét toàn bộ tính cách của đối tượng.

Cô ấy giải thích rằng cô đã có những giấc mơ lạ, mà cô nghĩ là có thể liên quan đến người ngoài hành tinh hoặc các linh hồn. Gia đình cô chẳng giúp ích được gì, bởi vì họ không hiểu gì về các hiện tượng huyền bí, và còn thường xuyên chỉ trích Edith vì các mối quan tâm của cô.

Trải nghiệm chính mà cô đã kể lại xảy ra vào năm ngoái (1997). Cô đang ngủ thì tỉnh dậy, nhìn thấy một cái bóng trong phòng đang tiến đến giường mình. Rồi cô không nhớ được gì khác ngoại trừ giấc mơ đến sau đó. Cô đang nằm trên một cái bàn với nhiều bóng người vây quanh. Trong trạng thái ngơ ngẩn mơ màng, cô nghe thấy họ đang thảo luận về mình. Họ nói gì đó về một sai lầm, và đã mất quá nhiều máu. Từ đó cô xác định được rằng họ đã làm gì đó với mình, rằng họ đã lấy máu của mình, và việc này đã gây ra các vấn đề thể chất hiện tại của cô. Cô ấy muốn tôi làm thôi miên để tìm ra: Vì sao họ lại lấy máu của cô, và họ sẽ dùng nó để làm gì? Cô tin rằng nếu trải nghiệm đó là thực thì đó hẳn là một sự kiện tiêu cực.

Khi bắt đầu phiên thôi miên, tôi không biết được liệu có phát hiện ra được gì hay không, vì tôi thực sự tin rằng các vấn đề của người phụ nữ này là do những nguyên nhân tâm lý ẩn sâu bên trong, và câu chuyện về người ngoài hành tinh chỉ đơn thuần là một lời biện hộ để đổ thừa lên một yếu tố ngoại quan không phải là cô. Nếu đúng là vậy, thì siêu thức của cô sẽ nói cho tôi biết.

 

Khi cô ấy đã rơi vào trạng thái thôi miên sâu, tôi hướng dẫn cô trở về căn hộ của cô ấy vào đêm xảy ra sự kiện. (Cô ấy chắc chắn về ngày vì cô viết nhật kí, và các sự kiện được ghi lại trong đó.) Cô đã tỉnh lại từ giấc ngủ sâu vì căn phòng quá lạnh. Rồi cô thông báo một cách lo lắng, “Có cái gì đó ở kia. Nó đang nhìn vào em. Nó đang quan sát em. Nó đang ở bên giường em.”

Cô mô tả một vật thể cách cô khoảng hơn 2 tấc, trông giống một bóng đèn màu cam vàng đang phát sáng, với một viên pha lê hoặc kim cương ở chính giữa. Hoảng sợ, cô đang nhìn trộm nó qua góc chăn thì phát hiện những sinh vật khác đã đi vào phòng. Một kẻ thì cao và trông giống con người với nước da nhợt nhạt. Ông ta đi cùng với ba sinh vật nhỏ trông giống các quả cầu màu trắng đang phát sáng. Cô không bị sợ hãi trước chúng, chỉ cảm thấy thích thú. Cô nghĩ chúng rất dễ thương, khi chúng chạm vào cánh tay và mặt cô bằng những ngón tay lạnh như băng. Sinh vật cao lớn giờ đang cầm một thiết bị phát sáng kì lạ. Một luồng sáng lạnh chiếu ra từ đó và nhằm vào giữa trán cô. Ông ta giải thích với cô rằng việc này sẽ không làm tổn hại cô; nó chỉ giúp đưa cô ra khỏi nhà dễ dàng hơn thôi. Cô được yêu cầu nằm thật yên khi một chùm sáng chiếu từ trên xuống bao bọc lấy cô, và rồi cô bắt đầu trôi ra khỏi giường. Bằng cách nào đó, họ đã ở bên ngoài và nổi lên trên. Lúc này, Edith có biểu hiện khó thở, và tôi phải loại bỏ các cảm giác thể chất cho cô. Ngay sau đó, cô đã ở bên trong một con tàu lớn, mặc dù cô không nhớ về việc mình đã có vào đó. Cô được đưa đến một căn phòng sáng, trong đó ánh sáng dường như phát ra từ các bức tường và trần nhà. Trong phòng có nhiều sinh vật khác nữa, mà cô mô tả là khác với những sinh vật nhỏ mềm mại màu trắng đã đi cùng cô. “Những kẻ này xấu hơn. Nhưng không phải họ thực sự xấu, chỉ là trông họ khác. Họ thấp và chắc chắn hơn, có màu nâu tím với cái đầu to béo hơn. Bọn nhỏ màu trắng sáng thì trông mềm mại hơn. Những kẻ này có làn da trông thô ráp.” Cô không thể chạm vào một sinh vật để xem thử, vì giờ đây cô đang nằm trên bàn và không thể cử động.

Sau đó, họ mang một chiếc máy đến cạnh bàn. Cô ấy sợ hãi khi nhìn thấy một tia sáng phát ra từ chiếc máy và đi vào cơ thể mình ở chỗ giữa hai xương sườn bên trái. Cô thốt lên: “Đau quá, nhưng lại không đau!”

Sinh vật cao lớn dùng thần giao cách cảm nói với cô ấy rằng việc đó sẽ không làm cô đau. Họ sẽ sửa chữa những tổn thương mà cô đã gây ra cho dạ dày của mình. Cô tự hỏi tại sao họ lại cho cái máy đó đi vào người cô ấy ở giữa xương sườn, thay vì đi qua miệng. Ông ta giải thích rằng đi vào ở bên sườn thì dễ hơn. Rồi tâm trạng cô đột nhiên chuyển sang trạng thái lo lắng, khi cô nghe thấy – qua thần giao cách cảm – các sinh vật kia nói rằng đã có một sai sót. Dạ dày cô có nhiều thương tổn hơn đã dự đoán. Họ đang lo lắng, vì dạ dày đang chảy máu nhiều hơn. Cần phải sửa chữa nhiều hơn so với suy tính ban đầu. Cô ấy đã mất một lượng máu lớn, và đang yếu dần đi. Cô ấy nghe được những lời này, “Bạn không được tổn hại cơ thể của mình. Nó là đặc biệt.” Rồi họ dùng ánh sáng để bịt lại chỗ chảy máu.

Tôi tò mò về lý do vì sao cô ấy đã không nhận ra được ảnh hưởng của tình trạng chảy máu bên trong. Họ nói rồi thì cô cũng sẽ nhận ra thôi, nhưng đến lúc đó việc sửa chữa có thể sẽ khó khăn hơn nhiều. Sau đó, họ đưa một chất lỏng màu trắng vào cánh tay cô thông qua một thứ “như cây kim, nhưng lại không phải kim”. Họ giải thích rằng họ “đang đưa vào các tế bào máu tốt hơn để chống lại các thiệt hại. Một thứ để làm các tế bào máu hoạt động tốt hơn. Để cho máu có nhiều oxy hơn.”

Khi bọn họ chuẩn bị rời phi thuyền, sinh vật cao lớn trao đổi với cô ấy rằng ông ta sẽ quay lại kiểm tra xem cô thế nào. Cô cảm thấy thoải mái với ông và nghĩ rằng mình có biết ông ta. Ông nói hai người bọn họ đã ở bên cạnh nhau từ trước khi cô đến cuộc đời này. Và ông thực sự rất già rồi.

Khoảnh khắc tiếp theo, cô ấy thấy mình đã ở trên giường trong nhà mình. Tâm trí cô ngập tràn những câu hỏi, nhưng chúng nhanh chóng tan biến đi khi cô chìm vào trong giấc ngủ. Sáng hôm sau, cô không còn kí ức nào về sự kiện, ngoại trừ giấc mơ ám chỉ rằng họ đã hại cô khi lấy máu của cô. Giờ đây mọi thứ đã rõ ràng rằng họ chỉ cố giúp đỡ cô ấy, và cô đã tự làm tổn hại cơ thể mình qua những trận nôn mửa liên tục gây ra bởi chứng cuồng ăn.

Các bác sĩ của cô lo lắng vì lượng tế bào trong máu cô thấp đến mức họ không thể hiểu được làm sao cô vẫn có thể hoạt động, và nói rằng lẽ ra cô ấy đã bất tỉnh. Siêu thức của cô thì nói với tôi không nên lo lắng về lượng máu thấp bất thường đó. Bây giờ như vậy là bình thường đối với cô, và cô có thể hoạt động khá tốt trong tình trạng đó. “Lượng tế bào máu không có ý nghĩa gì cả. Nó chỉ là một con số thấp. Một lượng tế bào thấp thường là dấu hiệu cho lượng oxy trong máu. Nguồn oxy của cô ấy còn lớn hơn mặc dù số tế bào máu thấp hơn.” Vùng dạ dày bị tổn thương đã được chữa lành, và các bác sĩ sẽ không tìm ra được gì với các xét nghiệm của họ. Sự kiện này có lẽ sẽ chỉ được ghi nhận lại như một bí ẩn, và miễn là Edith không gặp vấn đề gì về thể chất nữa thì tốt nhất nên để yên chuyện này.

Đây là một trường hợp cho thấy vấn đề giữa việc tâm trí ý thức diễn giải một giấc mơ phiền toái và đi đến kết luận sai lầm, trong khi   thôi miên sâu mới đưa ra hiểu biết đúng đắn về tình huống. Khi chúng tôi thảo luận sau khi Edith đã tỉnh dậy, cô đã có thể hiểu được rằng nhận thức của mình về giấc mơ đã bị sai lệch. Những sinh vật trên phi thuyền không làm hại cô, mà thực sự đã chữa cho cô khỏi những tổn hại mà cô đã tự gây ra do sự phù phiếm và tự ti của mình.

CHƯƠNG 5

KÍ ỨC BỊ CHÔN GIẤU

Cũng như những trải nghiệm thực nằm sâu trong tiềm thức đôi khi bị các giấc mơ che giấu đi, những kí ức cũng có thể bị bóp méo theo thời gian. Khi còn nhỏ, chúng ta nhìn nhận mọi thứ một cách đơn giản và ngây thơ hơn. Những gì thường gây tổn thương cho một đứa trẻ lại được chính đứa trẻ đó nhìn nhận khác đi khi nó trưởng thành. Thông thường, kí ức về một sự kiện bị chôn vùi vì nó quá chấn động hoặc đau đớn khi nhớ lại. Khi kí ức đó được tìm và được sống lại lần nữa trong trạng thái thôi miên, nó lại thường được nhận ra là không quá đáng sợ như vậy nữa. Nó có thể được soi xét và thấu hiểu bởi đứa trẻ đã trưởng thành. Tôi đã từng có khách hàng muốn nhớ lại một sự kiện bị lãng quên. Họ cho rằng, vì họ đã quên hoặc kìm nén nó, nên hẳn đó phải là một điều gì đó rất khủng khiếp. Trong trạng thái thôi miên, nó lại hiện ra là một sự kiện có thể được giải thích dễ dàng. Ví dụ như một hành động xấu hoặc một trò nghịch ngợm khiến cho cha mẹ tức giận. Không nhất thiết phải có hình phạt về thể xác thì sự kiện đó mới bị kìm nén. Thông thường nó chỉ đơn giản là do việc cha mẹ đã tức giận thôi. Thêm vào đó, giờ đây còn phổ biến loại kiến giải rằng nếu có điều gì đó bị ẩn đi thì là do UFO và người ngoài hành tinh đã nhúng tay vào bằng cách nào đó. Trong chín trên mười ca, tôi đã không tìm thấy gì liên quan đến người ngoài hành tinh cả. Đây chính là lý do tôi hay nói với các nhà điều tra rằng hãy luôn bắt đầu từ những điều đơn giản thay vì điều phức tạp. Nói cách khác, hãy tìm kiếm kiến giải đơn giản hợp lý nhất, trước khi đem các yếu tố khác thường vào. Khi sử dụng các cấp độ thôi miên sâu nhất, sự thật sẽ luôn xuất hiện. Nó không thể bị che giấu, trừ phi đối tượng nói dối hay bịa đặt thường xuyên như một phần bình thường trong cuộc sống. Trong trường hợp đó, họ có thể đã nói dối hoặc tưởng tượng, vì đó là một phần bản chất của họ. Nhưng những trường hợp như vậy rất hiếm, và câu chuyện của họ không thể đứng vững được. Nếu họ tưởng tượng thì câu chuyện sẽ không nhất quán mà sẽ thay đổi theo mỗi lần được kể lại. Nó sẽ được thêu dệt thêm các chi tiết mới vào. Ngoài ra câu chuyện cũng sẽ không khớp với mô thức mà tôi đã phát hiện. Luôn có khả năng là tôi chưa thu thập đủ các mảnh ghép của một mô thức. Ai đó có thể nghĩ ra một câu chuyện thể hiện một khía cạnh hoàn toàn khác mà tôi chưa khám phá ra. Vì thế mà tôi phải cởi mở với khả năng đó, và không tự động đóng hết các cánh cửa lại. Tuy nhiên, ngay cả khi có một cách tư duy mới, vẫn sẽ có những yếu tố phù hợp với mô thức. Hẳn nhiên, công việc của một nhà điều tra không dễ dàng gì, nhất là khi nó có kết hợp với cả trị liệu. Chỉ vì tôi cởi mở với tất cả mọi khả năng nên những trường hợp sau đây đã xuất hiện.

Fran là một người phụ nữ đã ly hôn ngoài bốn mươi tuổi, với đặc điểm nổi bật nhất là mái tóc đỏ rực của cô. Cô rất hài lòng với vị trí điều hành của mình tại một công ty danh tiếng. Cô tìm đến tôi vào năm 1988 vì cô có một số kí ức sống động lạ thường mà cô muốn khám phá bằng thôi miên. Cô lớn lên trong một trang trại ở Mississippi, và chưa từng tiếp xúc với các câu chuyện về UFO ở vùng nông thôn kiểu đó. Cô cũng không có tiếp xúc với bất kì loại sách hay chủ đề nào về siêu nhiên hay chuyện huyền bí. Vậy nhưng trong chính môi trường này mà các sự kiện đã xảy ra, và kí ức bị che mờ và vẩn đục.

Fran nhớ khi còn nhỏ cô đã nhiều lần nhìn thấy những ánh sáng kì lạ phía trên nhà mình, và khi lớn hơn thì có những ánh đèn đi theo sau xe cô. Vì không có lời giải thích hợp lý nào cho những hiện tượng này, cô cho rằng chúng có thể liên quan đến UFO. Kì lạ là khi những sự kiện này xảy ra thì cô không hề thấy sợ, trong khi những người đi cùng cô thì kinh hoảng. Cô không có những kí ức ý thức nào khác về những sự kiện này, nên chúng tôi đã quyết định khám phá những cảnh tượng này. Tôi đã thực hiện nhiều buổi điều tra như vậy, khi đối tượng trong trạng thái thôi miên bổ sung thêm nhiều chi tiết hơn về cảnh tượng. Chúng tôi đã không mong đợi bất kì điều gì lạ thường khác.

Cô ấy có một vấn đề cá nhân mà cô nghĩ rằng chúng tôi có thể tìm kiếm nếu phiên thôi miên đi theo hướng đó. Đó là cái mà tôi gọi là vấn đề về “mối quan hệ nghiệp quả”. Cô dường như đã có xích mích với người bà của mình từ khi còn rất nhỏ. Cô không hiểu cái gì đã gây nên tình trạng này, vì cô rất yêu bà, nhưng cô lại có cảm giác mình đã làm điều gì đó khiến bà khó chịu. Loại tình huống kiểu này được xử lý tốt nhất bằng cách quy hồi về tiền kiếp, nếu nguyên nhân của xung đột không được tìm thấy trong hiện kiếp. Nên tôi đã không thực sự tập trung vào đó. Tôi chỉ ghi chú lại, và nghĩ rằng chúng tôi sẽ theo đuổi vấn đề này nếu có thời gian.

Fran tỏ ra là một đối tượng xuất sắc, và ngẫu nhiên một cách bất ngờ quy hồi về một sự kiện bất thường trong thời thơ ấu của cô. Tôi quyết định lưu lại ở đó và đặt câu hỏi, vì thông thường siêu thức không đưa ra một sự kiện nào mà không có lý do cả. Cô ấy trở lại là một đứa trẻ lên bảy. Kiểu cách và biểu cảm gương mặt của cô ấy đúng đến kinh ngạc với độ tuổi mà cô ấy đang sống lại. Ở độ tuổi đó, cô ấy đang ngồi xếp bằng giữa giường mình và chơi với một bộ chén đĩa sứ nho nhỏ. Đó là một sự kiện đặc biệt vì cô không được phép chơi với chúng, do chúng thuộc về bà của cô. Nhưng cô nghĩ nếu mình chơi trên một cái giường lớn thì sẽ khó mà làm vỡ cái gì được. Cô vui vẻ cười khúc khích trong khi cầm chiếc bình nhỏ và những cái tách, cái đĩa. Cô nhận xét, “Những thứ này không phải của em. Em chơi với chúng. Cha đang ở đây, và ông đang chỉ cho em cách chơi đùa với chúng.”

Hóa ra người mà cô đang nói đến không phải là cha ruột của cô, mà ông ta đã yêu cầu Fran gọi mình là “Cha”. Rõ ràng đó không phải người lạ, mà là một người thường xuyên đến gặp cô. Tôi yêu cầu cô tả lại. Cô tả một sinh vật rất cao và gầy đang đứng ở một bên giường. “Ông ta chỉ có một tấm vải treo trên người. Trông nó không giống quần áo mà em hay mặc chút nào.” Cô ngần ngừ khi mô tả các đặc điểm ngoại hình của ông ta. “Ông ấy trông khó nhìn. Mặt ông ấy như thể khi chị nặn đất sét, và trộn nó cho thật bóng. Ông ấy không có tí tóc hay lông mày nào. Đôi mắt ông to và đen… nhưng nó thực sự không quan trọng.”

Ông ta đang dạy cô cách làm đồ vật bay lên. Ông đặt tay lên đỉnh đầu cô, và cô cảm thấy cả người râm ran khi cơ thể và những cái đĩa nhỏ bay lên trong không trung. Cô thấy việc này rất vui, và đang cười nói với ông ta. Đúng lúc đó bà cô đột ngột xông vào phòng. Bà đã nghe thấy tiếng nói chuyện, và muốn tìm hiểu chuyện gì đang xảy ra trong phòng, cho rằng cháu gái mình đang làm trò nghịch ngợm nào đó. Khi bà mở cửa phòng bất ngờ như thế, Fran bị mất tập trung. Những cái đĩa nhỏ rơi xuống và vỡ tan. Bà cô không thể hiểu được cô đã làm vỡ chúng như thế nào, nhưng bà rất tức giận với cô, mặc dù Fran khăng khăng rằng mình không làm gì cả. Kì lạ là bà cô dường như không nhìn thấy sinh vật kia. Ông ta đã biến mất ngay lúc bà vừa bước qua cửa hay sao?

Fran đã tình cờ quy hồi về sự kiện đã gây ra cơn giận giữa người bà và cô. Cô gái nhỏ cảm thấy giận dữ vì bị buộc tội oan uổng cho một việc mà cô không cố ý làm. Dĩ nhiên, ngay cả khi nếu cô có giải thích về “Cha” thì người bà cũng sẽ không hiểu được. Fran sẽ bị buộc tội tưởng tượng hão huyền hoặc nói dối. Khi đã trưởng thành, cô ý thức được rằng có chuyện gì đó đã xảy ra trong thời thơ ấu của mình, nhưng cô đã không thể nhớ được sự việc đó cho đến trước khi làm thôi miên.

Tôi muốn biết nhiều hơn về sinh vật này. Fran-trẻ-con trả lời rằng ông ta đã ở bên cô từ khi cô bắt đầu có kí ức. Ông thường gặp cô trong rừng, đi dạo và nói chuyện với cô. “Ông ta chỉ cho em cách nghe và lắng nghe. Những điều mà người lớn không nghe thấy. Ông ta chỉ em cách nhìn, màu sắc và những thứ mà người lớn không thể nhìn thấy. Thật đẹp.”

D: Khi ông ta đến thăm em, ông ta đến như thế nào?

F: (Bối rối) Em không biết. Ông ta chỉ đứng ở đó. Và đôi khi ông ta sẽ xuất hiện ở đó. Em không rõ làm sao mà em biết được. Trong tâm trí mình, em biết rằng ông ta sẽ ở đó.

D: Em có bao giờ gặp ông ta ở nơi nào khác ngoài nhà em và khu rừng không? (Cô ấy chần chừ khi trả lời. Có lẽ cô chưa từng nói với ai về chuyện này.) Chị chỉ tò mò thôi. Em có thể nói với chị những điều mà người lớn không tin. Có ai đó tin mình cũng tốt mà, đúng không?

F: Phải. Ông ta tin em.

D: Chị cá là có. Nhưng em đã bao giờ đi với ông ta đến nơi nào khác ngoài nhà mình và khu rừng không?

F : Em nghĩ là có. Trong khu rừng có ánh sáng này. Đó là một luồng sáng lớn. Có những bậc thang đi vào luồng sáng đó. Ông ta đi với em, và chúng em đi lên bậc thang.

D: Những bậc thang đó dẫn đến đâu?

F: Đến phần đáy của luồng sáng lớn đó.

Cô ấy tả lại cảnh bước lên các bậc thang ánh sáng. Ở trên đầu thang là một khung cửa bằng kim loại. Trông nó xám như kim loại, nhưng khi cô chạm vào thì lại thấy mềm. Ông ta muốn chỉ cho cô thấy nơi này, nhưng giải thích rằng cô không thể ở lại quá lâu. Có một hành lang, và những khung cửa đi vào các phòng. Nhưng những khung cửa này trông rất lạ lùng đối với cô, nó được làm bằng nhiều lớp khác nhau. “Có một khu vực mà tôi không được phép đến, trong phòng lớn. Chỗ này thì không sao.”

Trong căn phòng mà cô được phép vào, có một khối hình trụ trông như kim loại được đặt trên một cái bệ vừa vặn. “Nó thực sự sáng bóng. Còn cái thứ kim loại kia trên những cánh cửa thì không sáng bóng.” Tôi đang cố tìm hiểu về kích cỡ của khối hình trụ đó. “Nó không đủ lớn để em chui vào trong. Nếu em nằm xuống, có lẽ nó sẽ dài tới đây trên người em. (Chỉ vào mũi cô ấy). Nhưng em không thể chui vào, vì nó không đủ lớn. Đúng ra sẽ phải có một con vật nào đó ở trong đó.”

Sinh vật kia đang cầm mấy quả trứng mà ông đã lấy từ một tổ chim trong rừng. Ông ta nói với cô rằng ông cần đặt những quả trứng đó trong phòng. “Thế là em được vào xem.”

D: Ông ta đã làm gì với mấy quả trứng thế?

F: (Giọng cô nghe như trẻ con) Ồ, ông ta đã cất chúng đi, trong… trong cái thứ đó… (chỉ sang phía bên trái). Em không biết chính xác ở đằng đó là cái gì. Trông nó lạ lắm. Nó có chút ánh sáng, nhưng trông nó như một loại vải nào đó. Nhưng… nó không phải vải bình thường. Và ông ta đặt những quả trứng ở đó. Em tự hỏi tại sao ông ta làm như vậy?

D: Ý em là trông nó như rèm cửa ư?

F: Vâng, đại loại vậy. Nhưng nó khác. Nó có ánh sáng bên trong. Ông ta nói rằng cái đó giúp trứng nở. Ồ! Nó giữ cho trứng được ấm. Em thích nhìn những thứ như vậy.

D: Thế là ông ta đem trứng vào để xem chúng nở, và đó là lý do em được nhìn căn phòng đó.

Cô ấy cố gắng giải thích bằng kiểu nói trẻ con của mình rằng trong những căn phòng khác còn nhiều bể chứa như vậy nữa, và những con chim non sẽ được đặt vào một trong những cái bể đó để được giữ an toàn.

F: Họ có nhiều thứ khác nhau, nhiều loài vật khác nhau trong các bể chứa. Em không nghĩ chúng đến từ đây. Con vật đó. Nó không đến từ nơi này.

D: Em nghĩ nó đến từ đâu?

F: Những ngôi sao. Cha cũng đến từ nơi đó.

D: Đó hẳn là một quãng đường dài, đúng không? Ông ta có nói ở đâu không?

F: Ông nói em sẽ không hiểu được đâu. Ông chỉ nói, những vì sao.

D: Chà, điều đó giải thích được vì sao bọn thú sẽ an toàn hơn khi ở trong bể.

F: Em đoán vậy.

D: Ông ta có dẫn em đến nơi nào khác nữa không?

F: Không. Chúng em phải đi. Chúng em phải quay trở ra ngoài. Chỉ là đến giờ phải đi rồi.

D: Chuyện đó vui thật, đúng không?

F: Chắc chắn rồi. Em muốn đi lần nữa. (Khúc khích) Ông ta thích mái tóc đỏ của em.

D: Vậy à? Có khi ông ta thích chúng vì ông ta chẳng có sợi tóc nào. (Cô cười.)

D: Em có đi ra ngoài lại không ?

F: Có. Các bậc thang như các bậc ánh sáng trắng. Khác ở chỗ là chị có thể đặt chân lên đó. Khi em quay lại khu rừng, Cha lấy ngón tay gõ nhẹ lên giữa trán em, và em cứ nghe thấy từ « Quên đi. »

Tôi thử tìm hiểu xem liệu cô có gặp lại ông ấy lần nào nữa không, hay có thêm cuộc phiêu lưu nào với ông nữa không. Nhưng buồn thay, ông ấy nói với cô rằng ông không thể đến nữa sau tai nạn với bộ chén đĩa, vì ông đã làm cô gặp rắc rối với bà của mình. Ông nói cô sẽ phải quên hết tất cả về ông. Tôi cảm nhận được rằng ông thực sự yêu thích cô bé và không muốn rời đi, nhưng ông bắt buộc phải làm vậy. Ông có vẻ thích thú khi tương tác với cô và khi dạy dỗ cho cô. Nếu cô còn có bất kì sự liên hệ nào khác với ông thì tôi cũng không tìm ra trong ngân hàng kí ức của cô ấy. Hoặc là lời ám thị bảo cô quên ông ấy đi đã có tác dụng, hoặc là ông đã không hề quay lại.

Phần còn lại của buổi thôi miên liên quan đến những cảnh về người ngoài hành tinh mà cô đã nhìn thấy, và những thông tin hiện lên đều tầm thường.

Beverly là một nghệ sĩ trong độ tuổi bốn mươi. Cô ấy chính thức tự nhận là một nghệ sĩ, nhưng không phải lúc nào bạn cũng sống được với loại nghề nghiệp này. Nên cô đã chuyển sang vẽ chữ biển hiệu, và ngạc nhiên khi thấy mình thành công trong lĩnh vực này. Tuy vậy, cô vẫn theo đuổi hội họa những khi rảnh rỗi. Cô sống trong một ngôi nhà khác thường, được xây dựng hoàn toàn ăn vào sườn một ngọn đồi trong khu Núi Ozark chỗ chúng tôi. Nó giống như sống trong một hang động vậy. Dấu hiệu duy nhất từ thế giới bên ngoài là ánh sáng chiếu qua cửa ra vào và các cửa sổ ở bức tường chính diện. Đây là nơi chúng tôi đã thực hiện thôi miên vào năm 1988. Beverly muốn tìm hiểu các kiếp trước của mình, với hi vọng tìm ra kiến giải cho các vấn đề về (sự thiếu thốn) sức khỏe và tài chính của mình. Đó là dự định của chúng tôi, nhưng thường khi siêu thức lại có những ý tưởng khác. Trong trường hợp đó, tôi luôn thuận theo nó, vì phải có một lý do cho việc siêu thức đưa một điều gì đó ra. Thông thường, đó là điều mà đối tượng cần biết đến chứ không phải là mục đích dự kiến của buổi thôi miên.

Trong cuộc thảo luận trước phiên thôi miên, Beverly đã kể cho tôi nghe về một số trải nghiệm kì lạ trong thời thơ ấu của cô ấy mà cô chưa bao giờ quên được. Những trải nghiệm đó không làm cô lo lắng. Chủ yếu cô chỉ tò mò về chúng. “Có một sự kiện xảy ra lúc em học lớp một, khi người ta tưởng là một cô bạn gái của em, Patricia, và em đã bỏ nhà đi sau giờ học. Đối diện trường có một cánh đồng cây cối rộng lớn, đó là nơi chúng em đã đến. Em không có chút kí ức nào về chuyện gì đã xảy ra ở đó, chúng em đã ở đó bao lâu, hay bất kì chi tiết nào. Nhưng bố mẹ đã đi tìm chúng em. Em không biết thời gian đã trôi qua bao lâu, vì khi đó em không có khái niệm về thời gian. Em sống cách trường sáu dãy nhà, và chúng em đang đi được nửa đường về nhà thì mẹ em tìm thấy chúng em. Em không hề nhớ được những gì đã xảy ra trong thời gian đó, ngoại trừ việc mọi người làm ầm lên với em vì chúng em đã bỏ đi quá lâu. Họ nói trường học đã kết thúc lúc ba giờ, mà khi chúng em về đến nhà thì trời đã gần tối. Họ đã chuẩn bị gọi đến cảnh sát. Điều khiến em chú ý là, nếu như đó là lần đầu tiên em bỏ nhà đi, hẳn em phải nhớ được những gì em đã làm. Ít nhất cũng là phần nào đó, nhưng em lại không nhớ gì. Tất cả những gì em nhớ là chúng em đi qua đường và hướng vào rừng. Rồi em không nhớ gì khác nữa, ngoại trừ việc được mọi người tìm thấy sau đó và bị rắc rối vì việc đó. Em không nhớ liệu mình đã có một khoảng thời gian vui vẻ hay không nữa.”

Trong khi hồi tưởng về thời thơ ấu của mình, cô lại đưa ra những kí ức kì lạ khác. “Phòng của em ở phía sau nhà. Em thích ở một mình. Và em thường vào đó, đóng cửa để tránh xa bố mẹ, ngồi trên giường và mơ mộng. Ít nhất thì em nghĩ là mình đang mơ mộng. Em thường đang ngồi trên giường, và điều tiếp theo là em sẽ giật bắn người, tỉnh táo lại và thấy mình đang ở trên sàn nhà. Mẹ em nói có thể em đã ngủ thiếp đi và ngã khỏi giường. Nhưng em biết mình không ngủ. Điều này diễn ra trong suốt những năm em học cao học.”

Trong buổi thảo luận sơ bộ, chúng tôi đã nói chuyện về nhiều sự kiện trong cuộc đời cô ấy. Đây là dịp để tôi làm quen với đối tượng, và cố gắng tìm hiểu xem họ muốn làm thôi miên để khám phá điều gì. Đôi khi họ có những nhận xét thích đáng, đôi khi lại không. Trong ca này, có một số kí ức bất thường mà tôi đặc biệt lưu ý. Cuộc thảo luận với Beverly về thời thơ ấu của cô đã kích hoạt một kí ức khác: một kí ức tiêu cực về những cơn ác mộng.

“Lúc em còn nhỏ, nhỏ nhất mà em có thể nhớ lại được, và đó hẳn phải là hồi em ba tuổi, em đã gặp ác mộng về những con côn trùng khổng lồ. Em biết lúc đó mình mấy tuổi vì em nhớ lúc đó mình có một con chó. Những con bọ khổng lồ đó thường trèo lên giường với em. Chúng không làm hại em, nhưng chúng làm em nhớ đến những con “bọ que”. Chúng có thân mình dài và những thứ như xúc tu mỏng mảnh như của côn trùng, và đôi mắt to vĩ đại.”

Cụm từ “bọ que” làm tôi lưu ý, vì đã có những ca khác liên quan đến các sinh vật ngoài hành tinh như vậy. Có phải cô ấy đang mô tả các sinh vật ngoài hành tinh, hay chỉ đang nhớ lại trí tưởng tượng phong phú của một đứa trẻ? Tôi không muốn đưa ra bất kì gợi ý nào về các sinh vật ngoài hành tinh giống côn trùng mà tôi đã nghe được. Tôi muốn cho cô ấy tự mô tả theo cách của mình.

“Chúng không phải loại côn trùng thân tròn như nhện, mà thân chúng kéo dài. Có một số loài bọ có cấu tạo như vậy. Một trong số đó là bọ que, và loài còn lại là bọ ngựa. Chúng có những phần phụ ở trên mặt trước và ở trên lưng cơ thể. Và chúng to bằng em vậy. Dĩ nhiên, lúc đó em còn là một cô bé. Chúng không làm hại em, nhưng chúng đã thực sự làm em sợ hãi khi chúng trèo lên người em. Em có một cái giường đôi, và khi em nằm trên đó với bọn chúng ở trên nhìn xuống em, chúng to lớn hơn em. Thân chúng không chạm vào người em. Những cái chân xúc tu của chúng, hay bất cứ thứ gì, đỡ chúng ở phía trên em, nên có một khoảng trống ở giữa người chúng và người em. Thường thì có hai hoặc ba con trong phòng, nhưng ít nhất là một, và chúng chỉ nhìn vào em. Em đã có những cơn ác mộng đó từ lúc nhỏ nhất mà em có thể nhớ được, qua suốt cả thời thơ ấu của em. Lúc đó em thậm chí chưa bao giờ xem một bộ phim nào, đừng nói là một chương trình kinh dị.” Bọn chúng có màu sẫm, và đôi mắt to như mắt kiến, nhưng cô biết chúng chắc chắn không phải loại côn trùng đó.

“Nhiều lần em đã hét to và thức giấc. Đôi khi em sẽ dậy, ra sân sau để đem con chó của em vào giường. Mẹ em không cho đem chó vào nhà. Em sợ bóng tối, nhưng em sẽ ra ngoài trong đêm tối và đem con chó của em vào, và đặt nó nằm dưới chăn với em. Và thế là em có thể ngủ ngon. Ở nơi em đã sống, phần lớn các căn nhà đều có gián, vì khí hậu ở đó nóng và ẩm. Nhưng em không nằm mơ thấy bọn gián. Em về quê sống với bà trong các kì nghỉ hè, nhưng em không bao giờ gặp ác mộng ở đó.”

Khi Beverly tiếp tục liên kết các kí ức, cô kể ra một trải nghiệm kì lạ khác đã để lại ấn tượng đến mức cô chưa bao giờ quên được. Chuyện xảy ra khi cô đã trưởng thành, kết hôn và có một cậu con trai, sống ở vùng ngoại ô Houston vào đầu những năm 1970s. Nhà họ là ngôi nhà duy nhất trên phố mà không có bất kì cây cối nào ở sân sau. Điều đó không quan trọng, vì đằng nào họ cũng định sẽ lắp đặt một hồ bơi ở sân sau. Phòng ngủ của Beverly ở phía sau căn nhà. Khi đó, cô và chồng mình đang ngủ thì cô bị đánh thức bởi một âm thanh khác thường.

Cô ấy cười và nói, “Trong đầu mình, em biết ngay đó là một cái đĩa bay. Và em nghĩ, ‘Ồ, lại là bọn họ nữa thôi.’ Đừng hỏi em ý nghĩ đó đến từ đâu, vì em không hề có khái niệm một cái đĩa bay sẽ phát ra âm thanh như thế nào. Khi em thức giấc và nghe thấy tiếng động đó, em chỉ biết nó là như vậy. Robert vẫn ngủ, và anh ấy không hề thức dậy. Em đã nghĩ thật lạ là anh ấy không thức giấc và nghe thấy tiếng động đó, nhưng em không làm phiền anh ấy. Và em đã không ra khỏi giường, theo em biết là vậy. Em không biết mình đã tỉnh giấc bao lâu, nhưng em đã ngủ tiếp mà không ngồi dậy. Theo lẽ thường, em đã phải ngồi dậy. Hầu hết mọi người, khi họ nghe thấy gì đó từ sân sau, sẽ ngồi dậy và đi xem xét. Nhưng em đã không làm vậy, theo nhận biết của em.”

Tôi hỏi cô ấy âm thanh đó nghe như thế nào, và câu trả lời của cô rất quen thuộc. “Nó giống như tiếng vù vù, giống một chiếc máy bay siêu tốc.” Chúng tôi thử liên tưởng với nhiều âm thanh khác nhau cho đến khi cô ấy tìm ra một liên tưởng gần đúng nhất. “Nó không giống tiếng cánh quạt máy bay. Chị biết con quay của bọn trẻ con kêu như thế nào không, khi mà chị quay nó trên bàn ấy? Như tiếng hát hoặc tiếng rít. Một âm thanh quay vút the thé, như tiếng gió xoáy thật nhanh, rồi phóng đại âm thanh đó lên một chút. Tiếng đó không quá to. Ý em là, nó không to đến mức đánh thức cả khu phố dậy.”

Tôi gợi ý liệu đó có giống như tiếng của một chiếc trực thăng, nhưng âm thanh đó hẳn phải lớn hơn và ở một cao độ khác. Một liên tưởng khác, “Hoặc giống như tiếng máy giặt khi nó đang vắt quần áo, ngoại trừ việc em biết là âm thanh đó nhanh hơn tiếng máy giặt. Và em chắc chắn là mình đã không mê ngủ. Em nằm đó và lắng nghe tiếng động đó, rồi em nghĩ, ‘Chà, chỉ là một chiếc phi thuyền ở sân sau thôi.’ Em không hoảng sợ. Em chỉ chìm vào giấc ngủ trở lại, theo như em biết.”

Dường như đây là một phản ứng kì lạ. Thông thường, khi bạn nghe thấy một âm thanh bất thường vào ban đêm thì ý nghĩ đầu tiên sẽ là cho rằng có người đang ở sân sau và họ có thể đột nhập vào nhà. Phản ứng đầu tiên của bạn hẳn là sợ hãi, và rồi có khả năng là bạn sẽ ngồi dậy và nhìn ra cửa sổ. Tôi đồng ý rằng tất cả những kí ức này đúng là những sự kiện kì lạ. Tôi ghi chép lại chúng, nhưng mối quan tâm đầu tiên của chúng tôi là tìm câu trả lời cho các vấn đề hiện tại của cô ấy, không phải khám phá về UFO, điều mà cô đã nói là cô chẳng hề quan tâm đến.

Sau đó Beverly đổi chủ đề và tiếp tục thảo luận về nhiều vấn đề sức khỏe của cô. Cả đời mình, cô đã có những triệu chứng kì lạ khác thường mà các bác sĩ đều khó chẩn đoán được. “Chuyện này đến mức thành trò đùa. Họ chẳng bao giờ biết được em bị cái gì. Kể cả khi họ cho em làm nhiều xét nghiệm, họ cũng không thể nhất trí được với nhau đó là cái gì. Họ không bao giờ chắc chắn được về bất kì điều gì. Khi em đến các bệnh viện lớn để kiểm tra cũng vậy. Họ cứ đảm bảo với em là họ sẽ phát hiện được bệnh, nhưng lại rút lời khi họ không thể xác định được gì. Thật bực mình, khi phải lái xe mười ba tiếng đồng hồ và trả hai ngàn đô la cho các xét nghiệm mà họ vẫn không thể nói được em bị cái gì.” Thời điểm này, cô vẫn còn gặp một vài trong số các vấn đề đó, nên đây là một trong những lĩnh vực mà cô muốn khám phá. Cô muốn tìm hiểu tại sao mình lại có nhiều vấn đề sức khỏe như vậy, chúng đến từ đâu, đoán rằng nguyên nhân của loại nghiệp quả này có thể nằm trong một kiếp sống trước. Một nỗi lo nữa là cô liên tục gặp vấn đề về tiền bạc. Vì vậy, khi chúng tôi bắt đầu làm thôi miên, sức khỏe và tài chính là các trọng tâm của chúng tôi. Các kí ức tuổi thơ chỉ là những câu chuyện thú vị bên lề.

Sau khi Beverly đã vào trạng thái thôi miên sâu, tôi đã sử dụng các kĩ thuật với mục đích đưa cô ấy về một kiếp sống khác. Thay vào đó, cô lại chỉ thấy nhiều vòng xoáy màu sắc khác nhau. Điều này cũng thường xảy ra và ta có thể vượt qua nó. Sau khi tôi đưa ra những lời ám thị để thôi miên cô ấy sâu hơn, Beverly bắt đầu mô tả một cảnh trong kiếp sống hiện tại của cô. Cô ấy trở lại là một đứa trẻ sáu tuổi trong ngày đầu tiên đến trường.

Vừa cười khúc khích cô vừa kể lại chuyện bị tuột lại phía sau trong phòng vệ sinh, và bị lạc trong những dãy hành lang của ngôi trường to lớn. Điều này lại không đáng sợ, nó là một cuộc phiêu lưu. Với kiểu cách và lối nói chuyện của trẻ con, cô ấy mô tả chi tiết hơn về giáo viên và bạn bè của cô ở lớp một. Cô cũng mô tả lại nhiều về cách bố trí của ngôi trường. Siêu thức không bao giờ đưa ra một sự kiện nào mà không có lý do. Vì thế, tôi nghĩ rằng đây có thể là một cơ hội hoàn hảo để khám phá kí ức về việc cô đã chạy vào khu rừng đối diện trường học.

D: Nào, có phải xung quanh trường học có rừng cây không?

B: Ừ hử. Nó nằm ở bên kia đường, không phải con đường đông đúc đâu, mà là con đường ở mặt bên. Trong đó hơi đáng sợ. Em không đi vào rừng. Nhưng em có thể làm vậy!

D: Nó đáng sợ ở chỗ nào?

B: Ở những chỗ nhiều cây thì tối tăm. Nhưng trong đó không có gì cả, chỉ có rất nhiều cây. Trong đó cũng nhanh tối nữa.

D: Được rồi, Beverly, chị muốn em tiến tới ngày mà em vào khu rừng đó với cô bạn sau giờ học. Tên bạn ấy là gì nhỉ?

B: Patricia.

D: Tốt. Giờ em đang ở trong buổi chiều hôm đó, và đã hết giờ học. Các bạn nhỏ đã về nhà hết chưa?

B: Chưa. Chúng đang ở ngoài sân chơi. Chúng em chỉ đang đi lang thang.

D: Em đã từng vào khu rừng đó bao giờ chưa? (Chưa) Vì sao hôm nay em lại quyết định vào đó?

B: (Nói nghiêm trang) Chúng em đang trốn khỏi nhà.

D: Vậy ư? Vì sao em lại làm thế?

B: Bởi vì chúng em không thích ở nhà.

D: Đây là một việc khá quyết liệt nhỉ.

B: Chà, cũng đáng cho họ mà.

D: Vì sao em muốn trốn đi? Có chuyện gì xảy ra sao?

B: Không. Không có chuyện gì cả. Chúng em chỉ quyết định làm vậy vì chúng em không thích ở nhà. Hơn nữa, bây giờ chúng em phải có quyền đi đây đi đó chứ. 

D: Tại sao lại là bây giờ?

B: Bởi vì tụi em lớn rồi, và tụi em đang ở trường.

D: Em không sợ mình bị lạc sao?

B: Chà, có thể tụi em sẽ đi về nhà. Em không biết tụi em có bỏ đi luôn không nữa. Em nghĩ vài bạn đã vượt qua đoạn đường tối đen trước đó. Đó không hẳn là một con đường. Đó chỉ là một con đường nhỏ, chị biết đó. Nhưng em nghĩ những bạn khác đã làm được.

D: Chà, nói cho chị biết chuyện gì đang xảy ra đi.

B: Tụi em đi loanh quanh. Cây cối thật là lớn. Không có cỏ. Ý em là ta có thể đi giữa những hàng cây. Có lá thông và những thứ kiểu vậy trên mặt đất. Không có cỏ như trong sân nhà mình đâu.

D: Em đã làm gì trong rừng? (Tạm dừng) (Biểu hiện trên mặt và chuyển động của mắt cho thấy điều gì đó đang xảy ra.) Chuyện gì vậy?

B: (Bối rối) Em không biết. (Tạm dừng một lúc lâu) Em không nghĩ là em được nói. Em không nghĩ là em được làm gì cả. Em không biết cô ấy đang ở đâu nhưng em nghĩ tụi em đang không thể làm gì.

D: Ai đang ở đâu? 

B: Pat.

D: Không phải cô ấy đi với em sao?

B: (Dừng một lúc) Em không thấy cô ấy đâu cả. Em nghĩ em bị đông cứng rồi.

D: Nhưng tâm trí của em thì không đâu, và tâm trí của em có thể nói chuyện với chị. Và không ảnh hưởng gì đến em hết. Nó biết mọi thứ và nó có thể nói với chị.

B: Giống như là …giống như bị xóa sạch. Giống như cái cần gạt nước ấy.

D: Ý em là gì?

B: Em không biết. (Chuyển động của tay) Nó cong. (Chuyển động của tay) Nó ở ngay trước mặt em. Và em không được làm gì hết.

D: Em có thể nhìn thấu nó không?

B: Em không nghĩ em được nhìn.

D: Chị không muốn để em làm bất cứ điều gì khiến em gặp rắc rối. Chị chỉ tò mò. Nó từ đâu đến?

B: (Tạm dừng) Em không biết. Em vừa đi trong rừng, và…. em nghĩ nó có màu hồng nhạt. (Em ấy đang trở nên sợ hãi.) Nó giống như một chiếc khiên. (Giọng em ấy run lên và nước mắt trào ra.) Trước mặt em. (Bây giờ em ấy đã thực sự khóc và nức nở như một đứa trẻ.) Nó khiến em cảm thấy như em không thể di chuyển được. (Rõ ràng là rất buồn bã).

 Tôi đã nói chuyện nhẹ nhàng với em ấy để em ấy thoải mái và không còn xúc động nữa. Sau vài phút, tiếng nức nở lớn ngừng lại. Tôi cố gắng trấn an em ấy rằng em có thể nói chuyện với tôi và cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra. Em ấy bắt đầu bình tĩnh lại. 

D: Em nói nó có màu hồng nhạt à?

B: Dạ, nó hồng hồng. Và giống như nó làm cho mọi thứ tê liệt. Kể cả tâm trí của em. Nó đi từ phía này của em qua phía trước rồi sang phía bên kia.

D: Chỉ đi qua khuôn mặt của em hay sao?

B: Em không biết. Em chỉ biết là như vậy thôi.

D: Nói cách khác, đó là tất cả những gì em có thể thấy ngay lúc này. (Đúng rồi) Và điều gì đã xảy ra khi em đang đi bộ vào rừng?

B: Em nghĩ tụi em có thể nhìn thấy ánh sáng mặt trời ở đâu đó. Em nghĩ trời đã sáng. Và nó rất đẹp. Ánh nắng mặt trời đang chiếu xuống qua những tán cây. Em không nghĩ rằng mặt trời chiếu sáng xuống toàn bộ không gian, em nghĩ mặt trời chỉ chiếu sáng hướng bên phải thôi.

D: Nhưng em biết đấy, ánh sáng mặt trời đôi khi như vậy đó. Sau đó em đã làm gì?

B: Em nghĩ tụi em chỉ nhìn vào đó.

D: Đó có phải là ánh sáng mặt trời thật không?

B: (Bối rối) Em không biết. Em không thể … thứ màu hồng này … chỉ là không thể làm gì hơn nữa. Giống như nó dừng mọi thứ lại. (Tay chuyển động) Nó đến từ đây và đi băng qua đây (qua tầm nhìn của cô ấy). Nó không có chạm vào em. Nó bóng, nhưng không thể nhìn xuyên qua. Nó khiến cho mọi thứ dừng lại. Nó làm cho đầu em khựng lại. Nó không làm em đau. Em không cảm nhận được gì hết. Em không thấy được gì hết, trừ cái thứ màu hồng đó. Nó ở trước mặt em, như một cái lá chắn.

D: Em có cảm nhận được gì dưới chân mình không?

B: Em không nhận thức được chân của em. Em chỉ thấy tê cứng.

D: Em có nghe thấy gì không?

B: Không. Mọi thứ chỉ dừng lại. Giống như một bức ảnh tĩnh  vậy. Em không thể nhìn thấy gì ngoài… (Thở dài) màu vàng nhạt, hồng nhạt… nó dường như chỉ đóng băng mọi thứ.

D: Được rồi. Nhưng hãy nhớ rằng, đó chỉ là tạm thời và nó sẽ không làm phiền em nữa.

Beverly không thể kể lại bất kỳ cảm giác nào, như thể tất cả các giác quan vật lý của em ấy đã bị đóng băng theo đúng nghĩa đen. Tôi sớm nhận ra sự vô ích của việc theo đuổi điều này. Tiềm thức của Beverly vẫn chưa sẵn sàng để tiết lộ thông tin. Tôi chuyển em ấy đến trạng thái tiếp theo, cho dù nghe, ngửi hay cảm nhận. Đáng ngạc nhiên là em ấy đột nhiên bắt đầu cười khúc khích.

 B: Tụi em đang chạy ra khỏi rừng. (Cười khúc khích). Tụi em đã thoát ra. (Cười)

D: Ý em là gì vậy?

B: Chà, tụi em vừa mới ra khỏi đó. (Thở dài và cười lớn). Tụi em đã thoát ra rồi! (Tạm dừng) Tóc em xoăn tít.

D: Là sao cơ?

B: Chà, tụi em đã để tóc xoăn. Tụi em đang cười khúc khích và chạy ra khỏi rừng, và tóc tụi em dựng lên. (Thở dài) Và tụi em đã làm được. Tụi em đi vào rừng, và tụi em đã ra khỏi đó.

D: Có gì xảy ra khi em ở trong rừng không?

B: Em không biết. (Bối rối) Có lẽ là có điều gì đó xảy ra.

D: Ý em là gì?

B: Chà, chị biết làm thế nào khi chị đi vào nơi chị chưa từng đến trước đây, chị tự hỏi rằng có thể quay trở lại không. Và tụi em đã trở lại.

D: Em đã làm gì trong rừng?

B: Em chỉ đi chơi thôi. Em không nhớ. Em đoán tụi em chỉ vào rừng và đi lang thang. (Thở dài) Em phải quay lại bên kia đường. Trong rừng rất tối tăm, nhưng lúc mà chúng em đi vào rừng thì trời đang còn sáng ở sân trường. Còn bây giờ trời tối dần, nên tụi em tốt hơn hết là nên về nhà.

D: Chị đoán em nên đi đi trước khi em gặp rắc rối.

B: Có vẻ như tụi em đang gặp rắc rối.

D: Em đã quyết định không chạy trốn à?

B: Vâng, em đoán vậy. Em nghĩ tụi em phải về nhà. Em không biết liệu tụi em có … ồ! Em nghĩ họ đã đi theo sau tụi em. Mẹ của tụi em đang đuổi theo. Gần đến sân trường.

D: Chà, em đã không đi lâu như vậy, phải không?

B: Em không biết. Có lẽ là … chắc là khoảng sáu giờ. Giờ ăn tối thì phải. Trời sắp tối.

D: Điều đó có đáng không?

B: Em đoán vậy. Họ thực sự không làm phiền nhiều đến thế. Có lẽ vì mẹ của Pat cũng ở đó. Mẹ em sẽ làm vậy nếu bà ở một mình. Có lẽ vậy. Khi tụi em về thì Pat đi về nhà hướng bên phải con đường. Và em đi về bên trái đường.

D: À, mẹ của em có nói gì không?

B: Có. (Giọng điệu trẻ con, nhõng nhẽo, trách mắng, với những cử chỉ thích hợp.) “Con đã ở đâu vậy? Mẹ đã tìm con khắp nơi.” Mẹ không đánh đòn em”. (Cười khúc khích)

D: Em đã có một cuộc phiêu lưu nho nhỏ, phải không? (Uh-huh) Được rồi, Beverly, chị muốn em rời khỏi cảnh đó đi. Em đã bao giờ nhìn thấy chiếc khiên màu hồng đó vào một thời điểm khác trong đời chưa hay đó là lần duy nhất?

B: Em không nghĩ rằng em đã nhìn thấy chiếc khiên màu hồng. Em không nhớ một cái khiên. Đôi khi em chỉ rời khỏi, và em không biết gì cả, như kiểu mọi thứ chỉ dừng lại.

D: Chị sẽ đếm đến ba, và chị muốn em đi đến một trong những thời điểm mà em có cảm giác đó, ngay cả khi em không nhìn thấy cái khiên màu hồng. Và có thể em sẽ giải thích được chuyện gì đã xảy ra và xảy ra ở đâu, chị sẽ đếm đến ba, và chúng ta sẽ đi đến một thời điểm khác, nếu nó có tồn tại, khi mà em đã có kinh nghiệm. 1, 2, 3. Em đang làm gì vậy? Em nhìn thấy gì?

B: Em nghĩ em đã đi ra ngoài cửa sổ phòng ngủ của mình. (Bối rối) Vừa đi ra ngoài cái cửa sổ trên không.

D: Leo ra ngoài cửa sổ ư? 

B: Không. Chỉ là … chỉ bị hút ra. 

D: Em bao nhiêu tuổi rồi?

B: Tám hoặc chín. Có thể là Mười.

D: Cửa sổ có mở không?

B: Vâng. Nó đã được mở. Đang là mùa hè. Em đang ngồi trên giường, và em vừa bị hút ra ngoài cửa sổ.

D: Điều đó có bất thường không?

B: (Cười) Có vẻ là một chút bất thường đối với em. (Thở dài) Em nghĩ nó đã xảy ra nhiều hơn một lần. Đó là vào buổi tối. Có một bãi đất trống cạnh nhà em. Và đôi khi em ngồi dưới sàn nhà, tựa vào bệ cửa sổ, nhìn dòng người và dòng xe qua lại vào ban đêm.

D: Và sau đó điều gì đã xảy ra?

B: Em không biết. Em chỉ đi ra ngoài cửa sổ và sau đó quay trở lại.

D: Em cảm thấy thế nào khi ra ngoài cửa sổ?

B: Cảm giác như … một tiếng vù vù … rồi lao ra ngoài cửa sổ. (Bối rối) Em không biết em làm điều đó như thế nào. Xuyên thẳng qua tấm màn.

D: Xuyên qua tấm màn ư? Cảm giác sẽ như thế nào?

B: (Bối rối) Em không nghĩ rằng em cảm giác được điều đó.

D: Được rồi, chị muốn em trải qua cảm giác đó, và em đang đi xuyên qua tấm màn. Hãy theo dõi chính em khi em đi ra ngoài cửa sổ như vậy. Và cho chị biết chuyện gì đang xảy ra.

B: Em nghĩ em đang nói chuyện với ai đó. Là ai đó có kích thước bằng em. Nhưng em không thực sự nhìn thấy họ.

D: Vậy làm sao em biết họ ở đó chứ?

B: Em không thực sự biết…. Em nghĩ chỉ có một người, ngay đây, bên phải em, nói chuyện với em khi tụi em đang đi trên không. Em không thể nhìn thấy “nó”. Em chỉ nhận thấy một ấn tượng, một cảm giác. Cái đầu hình tròn. Mọi thứ đều ổn và tụi em chỉ đang nói chuyện. Em không nhớ mình đã nhìn thấy hay nhận ra điều gì quá đặc biệt.

D: Em nói rằng em có cảm giác như đang đi trên không?

B: Vâng. Ngay phía đối diện cánh cửa bên cạnh. Em nghĩ em đang lơ lửng trên không. Em không thực sự nhận thức được phần dưới cơ thể của mình.

D: Tụi em đang nói về điều gì vậy?

B: Em nghĩ chỉ là chào nhau. “Nó” thật thân thiện. Giống như tụi em đang làm điều này một lần nữa. Giống như một người nào đó mà em biết.

D: Người đó quen thuộc đối với em à?

B: Vâng. Giống như cùng một người, bởi vì không phải là ai đó mới lạ.

D: Em đang trôi nổi đến đâu rồi?

B: (Thở dài) Em không biết. Mặc dù em nhìn thấy. Như kiểu em biết tụi em đang đi đâu đó, nhưng em không biết điều gì khác cả.

D: Em có nhìn thấy các tòa nhà không?

B: Không có bất kỳ tòa nhà nào. Đó là một bãi đất trống. Có hai hoặc ba ngôi nhà trên đường phố. Em có thể nhìn thấy những ánh đèn ở phía xa. Nhưng chủ yếu chỉ là … không gian.

D: Em có cảm thấy như em đang ở rất xa mặt đất không?

B: Vâng, có vẻ như em đã bước ra cửa sổ, và đi lên cao hơn một chút. Có lẽ là bốn hoặc năm feet (một mét hai đến một mét rưỡi). Lên quá cửa sổ.

D: Và em đang lơ lửng với người đó à.

B: Vâng. Ý em là, đó không phải là người thật. Đó không phải là một con người. Nó hơi tròn. Nó giống con người, nhưng màu sắc của nó không giống như một người thường. Nó có màu nâu xám, da nhăn và dai như da voi. Thật ra, nó làm em nhớ đến những đường gờ trên vòi voi. Nó trông kỳ lạ, nhưng em cảm nhận được yêu thương. Nó quen thuộc với em. Nó không phải là người xa lạ.

 

Mô tả này tương tự như sinh vật “y tá” mà Phil nhìn thấy trên một món đồ thủ công được đề cập trong sách “Những người trông nom trái đất”. Nó cũng nhăn nheo, và cho đi cảm giác được quan tâm.

Tôi đã chỉ dẫn rằng em ấy có thể nhớ những gì đã xảy ra trong sự kiện kỳ ​​lạ này. Rằng kỉ niệm đã ở đó và có lẽ đã đến lúc chúng phải được tiết lộ. Sau đó em ấy đột ngột thông báo rằng đầu mình bị đau, em ấy chỉ vào vùng thái dương bên phải. “Giống như một cơn đau đầu. Giống như nó bị bóp chặt hay gì đó.” Tôi đã đưa ra gợi ý để loại mọi sự khó chịu. Sau đó, tôi nói với em ấy rằng những ký ức có thể xuất hiện, và chúng ta có thể nhìn vào chúng và xem xét chúng như một sự tò mò, và như một người quan sát, nếu cần thiết.

B: Em nghĩ có lẽ có chuyện gì xảy ra ở đó, nhưng em không tin đó là sự thật. Ta có thể dựng lên những điều như vậy.

D: Em nhìn thấy gì mà em nghĩ rằng em đang bịa chuyện?

B: Chà, nó có thể giống như một trò chơi mà ta tạo ra. Rằng ta đi qua không trung với sinh vật nhỏ này, và sau đó ta di chuyển trong tàu vũ trụ này.

D: Ồ, hãy nói cho chị biết những gì em đang chứng kiến. Chúng ta sẽ không lo lắng rằng đó có phải là một trò chơi hay không. Nếu đó là một trò chơi, chúng ta sẽ chơi trò chơi. Chúng ta có thể chơi một cách vui vẻ. Em nhìn thấy gì nào?

B: Chà, tụi em biết đó là nơi tụi em sẽ đến. Nó được cử đến để bắt em.

D: Nó có nói với em điều này không?

B: Uhm, em chỉ biết là như vậy. Em không hiểu làm thế nào mà em biết được nữa. Em chỉ biết là em đã đi qua cửa sổ và nó đã ở đó. Sau đó, tụi em sẽ trở về để gặp gỡ một lần nữa, đại loại là như vậy. Có một cái gì đó giống như một tàu vũ trụ ở bên phải. Và nó sáng lên ở phần sau của khoảng đất đó. Đó là một khoảng đất rộng lớn. Nhưng đó là tất cả những gì em nhìn thấy.

D: Nó trông như thế nào?

B: Nó hình tròn, phẳng và sáng bóng.

D: Tròn như quả bóng à?

B: Không phải. Nó giống như một cái đĩa. Nó mỏng. Và nó được làm tròn ở phía trên cùng. Nhìn mặt đáy thì phẳng nhưng không dày lắm. Nó sáng bóng và phát sáng. Nhìn gần như huỳnh quang. Toàn thân nó có màu trắng bạc.

D: Chị tự hỏi liệu có ai khác có thể nhìn thấy nó nếu họ để mắt tới.

B: Em không biết. Không có ai khác ở xung quanh cả.

D: Điều gì sẽ xảy ra nếu mẹ vào phòng của em khi em đi vắng? Mẹ em có gặp em trong đó không?

Tôi đang cố gắng xác định xem đó là cơ thể vật lý của Beverly đi qua cửa sổ, hay là linh hồn của cô ấy.

 B: Không. Em không ở đó. Nhưng em không nghĩ rằng mẹ em đã từng làm như vậy. Hoặc nếu có, bà ấy chỉ nghĩ rằng em đang ở một nơi nào đó khác trong nhà. Mẹ không thực sự tìm kiếm em đâu. Em biết em luôn đóng cửa phòng ngủ của mình. Và em không nghĩ rằng mình sẽ ở lại lâu.

Rõ ràng em ấy nhận ra chính cơ thể vật lý của em ấy đang trải nghiệm điều đó.

D: Em nghĩ cái đĩa đó to như thế nào?

B: To bằng một ngôi nhà. À mà, có lẽ nó không bằng một ngôi nhà đâu. Nó lớn hơn rất nhiều so với chiếc xe hơi. Có lẽ nếu chị xếp ba chiếc xe thành một vòng tròn, nó sẽ lớn đến cỡ đó.

D: Hãy cho chị biết điều gì đang xảy ra.

B: Em nghĩ nó chỉ dừng lại thôi. Em không thấy… Em không thấy sự tiếp tục. Em chỉ thấy những gì em đã thấy. Giống như băng qua được một nửa khoảng trống, rồi em nhìn thấy phi thuyền ở phía bên kia, và đó là nơi mọi thứ dừng lại. Em không thấy gì khác.

D: Em không biết là em đã tiến gần đến nó hơn hay chưa à?

B: Em không biết. Em nghĩ rằng em có thể đã tiến tới gần nó. Đó là nơi tụi em đã đến.

D: Điều tiếp theo em nhớ là gì?

B: Em luôn ngã từ trên giường xuống sàn nhà. Em luôn bị như vậy mỗi khi trở về. Em đang ở trên giường và em ngã xuống sàn. Lần nào cũng vậy.

D: Em trở về giường của mình bằng cách gì?

B: Em nghĩ họ chỉ thả em xuống đó. Và sau đó em ngã xuống sàn. Rồi nó đánh thức em.

D: Em đã có những trải nghiệm như này bao lâu rồi?

B: Ít nhất một hoặc hai năm. Nó đã diễn ra trong một thời gian dài. Kể từ khi em có phòng riêng. Em không nhớ sự việc đã xảy ra trước khi em có phòng riêng của mình hay không. Nhưng giờ em không nhớ mình đã ngủ ở đâu trước khi có phòng riêng. Em nghĩ có lẽ vào mùa hè, điều đó xảy ra thường xuyên hơn.

D: Và chuyện xảy ra luôn luôn như vậy à, lơ lửng ngoài cửa sổ, đi ra ngoài thật xa, và quay trở về?

B: Uh-huh. Nhưng em đã không trở về như cách em đã đi ra ngoài. Có vẻ như em vừa rớt vào giường của mình. Và rồi ngã xuống sàn, bởi vì em luôn nghĩ, “Mình đang làm gì trên sàn vậy?”

 D: Mẹ em có bao giờ nghe thấy tiếng em ngã xuống sàn không?

B: Có, mẹ em đã nghe! Mẹ nghe thấy tiếng va đập. Bà ấy bước vào và hỏi em đang làm gì. Và em nói với mẹ rằng em vừa ngã khỏi giường. Em đoán mẹ thấy em không sao. Nhưng em biết bà ấy đã nghe thấy nó từ phòng khác. 

Sau đó, tôi để em ấy rời khỏi cảnh em ấy đang chứng kiến, và tôi yêu cầu em ấy quay ngược thời gian.

D: Chị muốn em trở về thời điểm khi em còn nhỏ, và em đã từng có một số giấc mơ rất kỳ lạ. Em có muốn nói về chúng không?

B: Chà, chúng thật sự rất đáng sợ, bởi vì những thứ này vào phòng em vào ban đêm. Em đang ở trên một chiếc giường đôi dựa vào bức tường phía bên trong. Trong phòng tối đen. Chúng vào sau khi mọi người đã đi ngủ. Chúng bò xung quanh và nhìn em. Chúng có đôi mắt cực kỳ to, và chúng giống như những con côn trùng khổng lồ. Đó là những gì em nghĩ về chúng. Có một cửa sổ ở phía bên kia của căn phòng. Đôi khi ánh sáng xuyên qua nó, và em có thể nhìn thấy một vài trong số chúng ở trên sàn nhà. Và em có thể thấy chúng ở chân giường. Chúng sẽ lướt qua mặt và ngực của em. Và em muốn mở miệng hét lên, nhưng sẽ không có gì xảy ra. Đến khi em thực sự chuẩn bị thức giấc, thì em mới có thể hét lên.

D: Chúng to lớn cỡ nào?

B: Chúng lớn hơn em. Chúng đủ lớn để gần như lấp đầy cái giường của em. Những cái đầu của chúng thậm chí đặt ở đầu của em, ở phía trên cơ thể em.

Tôi đã chỉ dẫn cho em ấy rằng em ấy có thể nhìn lại cảnh tượng một cách rất rõ ràng, nhưng điều đó sẽ không làm phiền em ấy. Em ấy có thể theo dõi chuyện xảy ra như một người quan sát nếu em ấy muốn.

D: Bây giờ chúng đang ở đâu, khi em đang nhìn chúng?

B: Vâng, có một con sáng màu, hoặc ánh sáng phản chiếu vào nó. Và hai trong số chúng ở trên sàn nhà. (Tay chuyển động).

D: Ở phía bên phải của em à?

B: Giường của em đối diện bức tường, không phải ở giữa căn phòng. Và vì vậy phần còn lại của căn phòng ở bên phải của em. Và có một hoặc hai con trong số chúng trên sàn nhà, với ánh trăng hoặc ánh sáng gì đó chiếu vào. Tụi em có những tấm rèm kiểu Venice, và chúng không được đóng chặt lắm. Rồi sau đó có một hoặc hai con ở chân giường. Chúng sẽ trườn tới chỗ em, hoặc cơ thể chúng đủ dài để mặt chúng ở ngay trên mặt em, nhìn vào mắt em và mũi, tai và những bộ phận khác của em. Chúng có thể dang rộng chân và giữ cơ thể của chúng ở trên người em mà không chạm vào em. Vì vậy, đôi chân của chúng đủ dài để giữ cho chúng không chạm vào em. Nhưng đôi khi chúng vẫn chạm vào.

D: Cho chị biết chúng trông như thế nào đi.

B: Chúng có một cái đầu và mắt đen cực kỳ to. Cơ thể chúng khẳng khiu. Và có vẻ như những thứ ở cánh tay của chúng có cùng chiều dài với những thứ ở chân. Chúng giống như côn trùng. Giống như châu chấu hoặc một con gì đó có chân ở mặt trước và chân ở mặt sau. Chúng bóng và mịn. Gần giống như một ống thân dài, có chân hoặc tay hoặc thứ gì đó thoát ra từ đó, giống như những cái chân côn trùng. Em nghĩ những con ở trên sàn có một chút khác biệt. Chúng có màu sáng hơn. Em nghĩ chúng ngắn hơn và có thân hình béo hơn.

D: Khuôn mặt của chúng trông có giống côn trùng không?

B: Tất cả những gì em nhớ là đôi mắt. Và cái đầu to tròn, nhìn giống như đầu một con kiến. Nó tròn trịa, và có đôi mắt to ấn tượng. Những con trên giường tối màu, còn những con dưới sàn sáng màu. Em biết chúng có màu sắc khác nhau.

D: Em có thấy bất kỳ cái tay nào không?

B: Không, vì nếu chúng có tay, chúng đã đặt ở trên giường và em không thể nhìn thấy ở dưới đó vì em đang ngước nhìn vào khuôn mặt của chúng.

D: Bởi vì em nói rằng đôi lúc chúng đã chạm vào mặt em?

B: Vâng, đúng! Chúng có ngón tay. Chúng mở mắt em ra. Chúng chọc ngoáy khắp mặt của em. Tất cả những gì em có thể nhìn thấy là những ngón tay, những ngón tay gầy guộc. Cứ làm như vậy, trên khuôn mặt của em. (Những tay cử động, chẳng hạn như chạm hoặc vuốt má em ấy. Ký ức khiến em ấy khó chịu và em ấy bắt đầu khóc.)

D: Chị cũng sẽ không thích điều đó. Đó là tất cả những gì họ đã làm à?

B: (Khóc) Đó là tất cả những gì em nhớ. (Khóc và rất xúc động). Và rồi em thét lên, la hét và gào to.

Tôi trấn an em ấy bằng cách nói với em ấy như cách bạn nói chuyện với một đứa trẻ đang sợ hãi.

D: Em có bao giờ để ý cách chúng vào phòng của em không?

B: (Ngạc nhiên) Chúng phải vào qua cửa sổ. Có vẻ như cửa phòng em luôn đóng, bởi vì khi mẹ em chạy vào đó lúc em hét lên, mẹ luôn phải mở cửa. Em không nghĩ chúng đã đi ra khỏi cửa.

D: Điều gì xảy ra khi em bắt đầu hét lên?

B: Em nghĩ chúng đã rời đi. Em không biết rằng em đang cố gắng xua đuổi chúng. Em chỉ sợ hãi, vì vậy em đã hét lên. Và em nghĩ em đã có thể hét lên sớm hơn nếu có thể nhưng em không nghĩ là em làm được. Sau đó, em sẽ có thể hét lên, và rồi họ rời đi. Em đoán em đã đánh thức mẹ và mẹ em sẽ chạy vào phòng. Nhưng bà ấy không bao giờ nhìn thấy chúng.

D: Em đã bao giờ kể cho mẹ nghe về chúng chưa?

B: Em nghĩ em đã nói với mẹ rằng những con bọ khổng lồ đang bắt em. Mẹ chỉ nói với em rằng em đang gặp ác mộng và hãy ngủ tiếp đi.

D: Đúng rồi, nghe như ác mộng vậy.

B: Đôi khi em biết họ sẽ đến, và em sẽ gọi con chó của em tới. Chúng sẽ không đến khi em có con chó ở bên cạnh.

D: Làm thế nào em biết họ sẽ đến chứ ?

B: Em chỉ biết thôi, khi em đi ngủ, họ sẽ xuất hiện.

Chỉ đơn giản là biết điều đó thôi.

D: Có lẽ con chó đã đuổi chúng đi?

B: Hoặc là em đã không bao giờ thức dậy khi em ôm con chó của em.

Hoặc em đã không thức dậy như kiểu em đang gặp ác mộng.

D: Khi luồng ánh sáng đó chiếu qua cửa sổ, nó là ánh sáng của một ngọn đèn hay là cái gì?

B: Có vẻ như nó khá là sáng. Em nghĩ đó là ánh trăng, nhưng chị biết đấy có thể là vật thể đó trên bầu trời chiếu ánh sáng qua những tấm rèm cửa.

Chị nghĩ, chúng ta đã tìm hiểu đủ cho phiên thôi miên ngày hôm nay rồi.

Thật kỳ lạ khi sự tắc nghẽn tương tự này lại xảy ra khi tôi làm việc với một đối tượng UFO khác vào ngày hôm sau. Cô ấy trải qua một luồng năng lượng xoáy đen tối dường như có thể đóng băng hoặc dừng mọi thứ. Cô cũng không thể nhớ quá khứ một điểm nhất định nào đó. Điều thú vị là kiểu ngăn chặn tương tự này lại xảy ra ở hai người riêng biệt trong khoảng thời gian gần như vậy.

Trong các cuộc điều tra của tôi những năm sau đó (1990), chuyện này thỉnh thoảng xảy ra. Đôi khi tôi có thể nhận ra đó là một nỗ lực của tiềm thức để ngăn chặn thông tin nếu đối tượng không sẵn sàng để điều tra một chuyện gì đó như thế này. Những lần khác, tôi tự hỏi liệu đó có phải do sự chỉ dẫn hậu thôi miên từ chính những người ngoài hành tinh để khiến đối tượng không nhớ về một điểm nào đó trong quá khứ hay không.

Trong các phiên tiếp theo với Beverly, chúng tôi có thể phá vỡ những rào cản và khám phá những gì nằm ngoài rào cản đó. Vài tuần sau, chúng tôi gặp lại nhau và có một phiên thôi miên khác. Chúng tôi vẫn đang cố gắng tìm ra điều gì đó có thể giải thích cho những vấn đề về sức khỏe và tiền bạc của em ấy trong kiếp sống này. Lần này sự ngăn chặn xuất hiện ở phiên thôi miên trước đã biến mất. Vào đầu phiên, tiềm thức của em ấy xuất hiện hai kiếp trước riêng biệt của em ấy để xem xét. Một ở vùng đất sa mạc. Còn lại dường như có niên đại vào khoảng thời gian Nội chiến. Tôi để em ấy lựa chọn, và em ấy dễ dàng đi vào kiếp sống dường như đã kết thúc vào khoảng đầu thế kỷ. Phiên này không thú vị lắm đối với tôi, nó quá đỗi bình thường, nhưng nó có một số thông tin quan trọng đối với Beverly.

Tiếp theo, Beverly chuyển dịch vào cuộc sống khác mà em ấy đã nhìn thấy, kiếp sống trong sa mạc. Em là một người đàn ông trung niên, một thành viên của một nhóm cư dân du mục trên sa mạc. Họ dẫn theo một đàn dê. Những con dê rất quan trọng đối với sự sống còn của họ vì ngoài việc cung cấp thực phẩm, chúng còn được bán trong các thị trấn hoặc buôn bán để để đổi lấy nhu yếu phẩm. Tôi đã đưa em ấy đi qua các sự kiện quan trọng, em ấy đang ở trong một khu chợ buôn bán và trao đổi hàng hóa mang theo bên mình. Em thích sự tự do, có thể đi lang thang và không bị ràng buộc bởi luật lệ và hạn chế của cuộc sống thành phố. Khi được hỏi tên của bộ lạc, em ấy nghĩ ra cái tên “Teleg”, nhưng em ấy không chắc đó là tên của bộ lạc hay thị trấn hay là tên của em ấy. Beverly nghĩ rằng em ấy đang ở Ai Cập. Nhiều thông tin được đưa ra, nhưng toàn là tẻ nhạt.

Điều bất ngờ đã đến khi tôi bảo em ấy chuyển sang một ngày quan trọng khác trong kiếp sống đó. Tôi thường đưa đối tượng đi qua toàn bộ một kiếp sống, hồi ức chạm tới những ngày quan trọng và sau đó kết thúc bằng cái chết của họ. Thỉnh thoảng họ sẽ chuyển dịch vào một kiếp sống không liên quan khác. Điều này là bình thường và cho thấy sự bất ổn của tiềm thức có thể tồn tại suốt đời khi thử nghiệm này được thực hiện lần đầu tiên. Khi đối tượng biểu hiện hiện tượng này, tôi thường thuận theo bởi vì tiềm thức có thể chứa đựng những bí mật quan trọng hơn là chuyện nó muốn tiết lộ. Thông thường, sau một vài phiên thôi miên, đối tượng có thể giữ nguyên một kiếp sống và khám phá kiếp sống đó một cách chi tiết. Rõ ràng tiềm thức của Beverly nghĩ rằng không có lý do gì để tiếp tục khám phá kiếp sống trên sa mạc. Nó quyết định chuyển sang một thứ gì đó mà nó cho là có ý nghĩa hơn. Tôi lẽ ra có thể đưa em ấy trở lại kiếp sống ở sa mạc để biết thêm thông tin, nhưng tôi quyết định thuận theo tiềm thức lần này. Vì nó đã ngăn chặn trong phiên trước, tôi nghĩ nó có thể đã sẵn sàng để hé lộ. Tôi yêu cầu em ấy rời khỏi khung cảnh ở khu chợ, và tiến tới một ngày quan trọng khác trong kiếp sống của em ấy “Em đang làm gì đó? Em nhìn thấy những gì?”

B: Em đang trên đường đi đến trạm dịch vụ của bố em.

D: (Rõ ràng là em ấy không còn sống trong sa mạc.) Ồ? Đó là ở đâu?

B: Chỉ vừa xuống phố từ nhà của em.

D: Thị trấn nào vậy?

B: Ở Shreveport.

D: Em đang làm gì ngoài đó?

B: Em chơi với những người làm việc ở đó. Họ đang dạy cho em biết về Harry Truman và bảng chữ cái. Và học đếm nữa.

D: Ồ. Em bao nhiêu tuổi?

B: Năm hoặc sáu.

D: Có phải tên em là Beverly ?

B: Uh-huh. Họ cũng đang dạy em cách đánh vần cái tên đó.

D: Em đã đi học chưa?

B: Chưa. Nhưng em sẽ hiểu biết nhiều hơn những đứa trẻ khác khi em đi học, vì Eddie dạy em. Eddie là một người đàn ông da đen. Em không biết tại sao người ta gọi là da đen, vì đó là da nâu cơ mà.

D: Đúng vậy. Chà, em thật may mắn nếu có ai đó đang dạy em học. Em sẽ biết nhiều hơn những đứa trẻ khác, phải không?

B: Uh-huh. Và em rất hạnh phúc. Em thích Eddie. Ông ấy chỉ có một tay thôi.

D: Vậy à? Chuyện gì đã xảy ra?

B: (Vấn đề về tính xác thực) Cái còn lại bị chặt.

Sự trung thực điển hình của trẻ con này đôi khi có thể gây ngạc nhiên lớn.

D: Ồ? Và em nói rằng bố của em có một trạm xăng à?

B: Uh-huh. Eddie làm việc cho ông ấy. Và Eddie cũng thông minh như bố em.

D: Chà, Chị nghĩ thật tuyệt khi em được ông ấy dạy học.

Tôi quyết định thử lại phân cảnh trong rừng, bây giờ những rào cản dường như đã được gỡ bỏ. Rõ ràng là em ấy đang ở trong một trạng thái sâu hơn nhiều. Beverly đang thể hiện tính cách của một cô gái nhỏ, thậm chí đến cả nét mặt, cử chỉ tay và cách cư xử trên cơ thể. Tôi chỉnh lại giọng điệu và các câu hỏi của mình như thể đang nói với một đứa trẻ. 

D: Hãy chuyển đến cảnh tượng khi em học lớp một, em đang đi học và em đang học hỏi mọi thứ. Chuyển tới thời ngày mà em cùng bạn mình tiến vào khu rừng ở cạnh trường học. Tại sao em làm như vậy? Em không muốn về nhà à?

B: Không! tụi em muốn ở ngoài và chơi lâu hơn nữa.

D: Em có thích trường học không?

B: Em thích. Em đã gặp rất nhiều bạn mới. Và điều đó thật dễ dàng. Tất cả những gì tụi em làm là tô màu những cuốn sách mọi lúc.

D: Em không học chữ cái à?

B: Có. Nhưng em đã biết trước rồi. Em là đứa nhỏ nhất trong trường, nhưng cho đến nay em biết nhiều như các anh chị khác.

D: Chà, ai đang đi cùng với em vậy?

B: Một giáo viên sắp kết hôn và em không thể nghĩ ra tên của cô ấy. Nhưng em có thể nhìn thấy khuôn mặt của cô. Cô ấy có mái tóc màu nâu, cô sẽ kết hôn và tên của cô ấy sẽ thay đổi. Còn có cả Clinton. Có một giáo viên khác. Và bạn của em, Patricia. Một cậu bé tên Bobby nữa.

D: Tất cả ở đang trong lớp em à ?

B: Ngoài sân trường cơ.

D: Vậy, em đã đi vào rừng chưa?

B: Rồi ạ, khi tan trường và mọi người đều về nhà, em và Patricia đã đi vào rừng.

D: Kể cho chị nghe về nó. Khu rừng trông như thế nào?

B: (Dịu dàng và bộ dạng trẻ con). Chúng thật đáng sợ.

D: (Cười thầm) Nhưng nó không nguy hiểm chứ?

B: Đúng. Và cây cối ở đó thật là cao lớn. Tụi em đang cười khúc khích khoái chí, bởi vì tụi em đang làm một việc mà tụi em không nên làm.

D: Trước đây em đã bao giờ vào trong rừng chưa?

B: Không phải khu rừng ở đó. Em đã ở trong một khu rừng nhỏ xíu. Nhưng đường đến khu rừng này rất xa.

D: Em không sợ mình sẽ bị lạc ư?

B: Em sẽ quay lại như cách tụi em đi vào.

D: Em thấy gì khi em ở trong rừng?

B: Chà, tụi em thấy rất nhiều cây cối.

Một khoảng lặng dài. Chuyển động mắt của em ấy cho thấy em ấy đang gặp phải chuyện gì đó.

D: Patricia có bằng tuổi em không?

Giọng cô ấy trầm hơn khi cô ấy trả lời, “Vâng.” Tôi biết có chuyện gì đó đang xảy ra, nhưng tôi phải rất cẩn thận để không dẫn dắt hoặc gợi ý.

B: (Thận trọng) Em nghĩ có thứ gì đó trong rừng. Nó có thể là chuột. Có thể không phải. Có thể là những con côn trùng cỡ lớn.

D: Em nhìn thấy gì?

B: Em không thấy gì cả, nhưng em chỉ biết có thứ gì ở trong đó. Em có thể nghe thấy nó.

D:  m thanh đó như thế nào?

B: (Tạm dừng) Đó chỉ là sự chuyển động. Có thứ gì đó đang di chuyển phía trong.

D: Em đang tìm hiểu đúng không?

B: Em không biết. Em không nghĩ tụi em nên đi xa hơn nữa. Em nghĩ tụi em nên ở ngay đây. – Em thấy một luồng sáng.

D: Nó đến từ đâu?

B: Nó đến từ trong rừng, chiếu ra phía của em. 

D: Luồng sáng này lớn như thế nào?

B: Nó không thực sự lớn. Nhưng nó có màu xanh lam, trắng xanh. Ánh sáng đang tỏa ra.

D: Lớn bằng ánh đèn pin không? 

B: Không, nó lớn hơn ánh đèn pin. 

D: Giống như ánh đèn pha của một chiếc xe hơi à?

B: Cỡ đó. Đúng rồi, nó sẽ lớn như vậy.

D: Nhưng đèn pha không phải màu đó phải không? ( À không). Nó đến nhanh hay chậm?

B: Chậm. Nhưng em không biết phải làm gì. (Thở dài) Em phải trở nên dũng cảm.

D: Em muốn làm gì chứ?

B: Chà, em không nghĩ mình có thể làm được gì. Em không cho rằng em có thể chạy đi. Em nghĩ rằng em đã bị bắt.

D: Tại sao em không nghĩ là em có thể trốn thoát chứ?

B: Em chỉ không nghĩ là em có thể. Em nghĩ đã quá muộn rồi. Giống như em đang mắc vào một cái bẫy thú hay cái gì đó. Hiện tại em không nghĩ rằng em có thể trở lại. Không có cảm giác như em có thể quay lại.

D: Cái đèn còn ở đó chứ?

B: Uh-huh. Em nghĩ rằng tụi em đang đi với nó. Đúng rồi, nó đang kéo tụi em về phía nó.

D: Kích cỡ nó như thế nào?

B: Nó to bằng em.

D: Lúc đầu, em nói nó giống như một cái đèn pha?

B: Đó là nơi mà ánh sáng đã phát ra, nhưng đó là một cái đèn lớn. Khi nó đến gần em nó lớn bằng em, em không thể đi đâu được. Nó vây quanh em.

D: Còn Patricia thì sao?

B: Em không biết. Em đoán nó cũng ở xung quanh chị ấy.

D: Em nói như thể là em muốn đi với luồng sáng đó?

B: Em nghĩ là em phải đi theo. Em không nghĩ mình có thể chạy trốn lúc này. Hơn nữa, nó sẽ bắt em nếu em làm vậy. Em đang đi về phía trước trên những chiếc lá, nhưng giống như là cái đèn đang khiến em làm điều đó. Nó sáng chói và nó khiến em không thể nhìn thấy mọi thứ. Nhưng em vẫn ổn. Nó không làm em đau.

D: Hãy cho chị biết điều gì xảy ra.

B: Chà, tụi em bước lên trên đó và vào trong tòa nhà nhỏ này. Nó tràn ngập ánh sáng. Em không thể thấy rõ. Nó giống như một chiếc ô tô. Nhưng em đoán là lớn hơn một chiếc ô tô một chút.

D: Hình dạng của tòa nhà như thế nào?

B: Nó hình tròn, giống như nửa quả bóng.

D: Em đi vào đó bằng cách nào?

B: Qua một trong những cái gì đó giống cửa sổ. Chúng có rất nhiều khe hoặc cửa sổ để có thể đi vào.

D: Nó có ở trên mặt đất không?

B: Không, nó không ở trên mặt đất. Nó ở trên không. Nó thấp, nhưng nó nó ở trên không. Chỉ cần trôi nổi tới cái thứ giống như cửa sổ và đi vào đó. Và sau đó chúng đưa em vào giấc ngủ.

D: Em đã thấy gì trước khi họ đưa em vào giấc ngủ?

B: Những người nhỏ bé. Chúng trông không giống người cho lắm. Chúng trông giống như những sinh vật tí hon. Chúng không lớn hơn em nhiều. Nhưng chúng là người tốt. Có thể trở thành những người bạn trong trí tưởng tượng của em.

D: Có thể lắm. Em có thể nhìn thấy khuôn mặt của chúng không?

B: Khuôn mặt của những con bọ nhỏ, ngoại trừ chúng tỏa sáng. Ý em là, chúng không đen như những con bọ. Loại da có màu hơi xám hồng, nhìn giống như da của những đứa trẻ, nhưng khuôn mặt thì trông đáng sợ. Chị biết bọ trông xấu xí như thế nào khi nhìn vào mặt của chúng không?

D: Chúng có tóc không?

B: Không. Không ai trong số chúng có tóc cả. Và chúng làm cho em thiếp đi.

D: Em có thể nhìn thấy đôi mắt của chúng trông như thế nào không?

B: Mắt rất to, giống như những chiếc cúc áo màu đen. Những cái cúc siêu to.

D: Còn mũi và miệng của chúng thì sao?

B: Chúng không có mũi và miệng. Có lẽ vậy. Đó là loại … loại mặt lỗi. Chị biết đấy, chúng không có các đặc trưng như chúng ta.

D: Em có để ý đến bất kỳ điều gì về cơ thể của chúng không?

B: Loại cơ thể giống như ma quái. Chị biết đấy, em không nghĩ chúng có chân. Em nghĩ rằng chúng chỉ trôi nổi, lượn lờ. Có thể chúng có chân, nhưng không giống chân của em. Cơ thể và tay chân của chúng cũng rất gầy. Em không biết làm thế nào chúng có thể đứng thẳng. Đó là lý do tại sao em nói rằng chúng lơ lửng. Và tất cả đều có màu hồng nhạt. Màu sắc, ánh sáng, đều là màu hồng. Em đoán màu hồng là do chúng là các cô gái bé nhỏ. Em không biết nữa.

 D: Điều đó nghe có vẻ hợp lý, đúng không? Em nhìn thấy chúng có bao nhiêu ngón tay?

 B: Ồ, chúng có … ba hoặc bốn ngón tay.

Em ấy giơ các ngón tay lên, gập ngón út xuống và giữ nó bằng tay còn lại. Những cử chỉ rất trẻ con.

B: Chúng không có ngón tay út. Chúng có một ngón tay cái và … hai, không, có ba ngón ở trên này mới đúng. Có một đứa trong trường em có sáu ngón tay. Và những người này chỉ có bốn. Lester là tên của anh ấy. Anh ấy có sáu ngón chân và sáu ngón tay.

D: Và những người này chỉ có ba ngón tay và một ngón cái. Vì vậy, chuyện này có thể xảy ra. (Uh-huh) Những người nhỏ bé này có mặc quần áo không?

B: Không. Chúng không mặc quần áo như động vật không cần quần áo vậy. Chị biết đấy. Không thấy gì cả.

Em ấy nói kiểu này một cách bí mật. Có phải em ấy đang đề cập đến bộ phận sinh dục?

 

D: Em có thấy gì khác trong phòng không? Em nói có cái đèn màu hồng à?

B: Vâng. Rất nhiều đèn ở khắp mọi nơi. Và rất nhiều bàn. À không nhiều bàn lắm. Một vài cái bàn thôi. Như bàn của bác sĩ. Giống như bàn khám bệnh. Và rồi có một căn phòng khác. Đó là một căn phòng nhỏ. Còn có những thứ như kính lúp ở trên một cái bàn đặt ở cái phòng khác.

D: Ý em là gì, kính lúp ư?

B: Chúng trông giống như những thứ dính trên không và sau đó quay trở lại. (Em ấy đang làm chuyển động tay). Giống như những đường cong ánh sáng. Không phải đường cong, nó có những khúc quanh co bên trong. Nó đi lên và sau đó nó quay trở lại. Và chúng có thể chiếu sáng bất cứ đâu chúng muốn.

D: Ồ, vậy ư, ý em là chúng có thể di chuyển nó vòng quanh. Một cái đèn lớn như cái đèn của các bác sĩ à? (Đúng rồi) Và nó phóng đại phải không?

B: Em nghĩ vậy. Nó ở trong căn phòng khác. Ở đằng kia. (Em ấy vung bàn tay và cánh tay của mình trong một chuyển động nhanh chóng, để chỉ về phía bên trái của em ấy). Nơi đặt cái bàn nhỏ. Và cái đèn nằm trên trên cái thanh dài chui ra từ bức tường.

D: Em nói có rất nhiều đèn? Chúng ở đâu rồi?

B: Chúng ở trong bức tường. Chúng thực sự sáng bóng. Nó giống như, ta biết nơi giấu đèn trong phòng, nhưng nó vẫn sáng lên? Chà, nó sáng thật, nhưng em không thấy đèn ở đâu.

D: Giống như chúng ở sau một cái gì đó, ý của em là vậy đúng không?

B: Đúng vậy, hoặc ánh sáng chỉ hắt ra từ các bức tường, ngoại trừ trong căn phòng nhỏ khác, nơi có cái đèn lớn ngoằn ngoèo đó. Đó là nơi chúng kiểm tra em. Có cả bàn trong đó nữa. Em không biết chúng sử dụng những chiếc bàn đó để làm gì, vì chúng chưa bao giờ đặt em lên chiếc bàn đó. Có thể chúng sử dụng cái bàn đó cho những người trưởng thành.

D: Nó trông lớn hơn à?

B: Vâng. Những cái bàn được xếp thành hình tròn ở giữa căn phòng.

Tôi yêu cầu em ấy giải thích.

B: Chà, chúng là những chiếc bàn dài. Và sau đó là một cái khác, một cái này, và thêm một cái ở kia nữa. Có lẽ đó không phải là những cái bàn để kiểm tra. Có lẽ đó là loại hộp chứa đựng một cái gì đó. Tất cả chúng được đặt trên lối đi dẫn xuống sàn nhà. Nó giống như chất rắn, nơi ta có thể đặt mọi thứ vào đó. Giống như với ngăn kéo và đồ đạc.

D: Những cái bàn đó, chúng có thể được làm bằng chất liệu gì?

B: Thép không gỉ. Thực sự sáng bóng.

D: Nếu chúng nằm trong một vòng tròn, thì có gì ở giữa vòng tròn không?

B: Không. Không có bất cứ cái gì ở giữa. Nhưng ta có thể bước vào, và ở giữa chúng, như ở giữa những cái bàn.

D: Vậy, em có thấy gì khác ngoài những cái bàn không?

B: Em thấy cây cầu kéo.

D: Là gì vậy?

B: Đó là thứ ở đằng trước dùng để đóng cánh cửa lại.

D: Em đã bước lên cây cầu đó để vào đúng không?

B: Em đoán vậy. Nó đã mở khi em bước vào. Nhưng em biết nó ở ngoài kia, và họ đã đóng nó lại.

D: Em có thấy gì khác trong căn phòng đó nữa không?

B: Xung quanh bức tường toàn là la bàn, nút bấmm những thứ để bật tắt và điều khiển con tàu. Chúng được đặt trong một vòng tròn. Tất cả đều trông giống như… một chiếc máy bay. Nó quá phức tạp đối với em. Có một số thứ trông như … Ý em là. Nó không giống như một cái máy thu hình thực sự. Nó không phải là một cái hộp. Nó giống như một bảng điều khiển hoặc màn hình mà ta có thể thấy mọi thứ trên đó. Nó đang tắt. Em tưởng tượng mọi thứ được bật lên khi chúng bay vòng quanh. – Chị biết em đoán những thứ ở chính giữa đó là gì không? Em cá rằng chúng là giường cho những kẻ nhỏ bé đó. Em tin chắc là vậy. Chúng có thể ngủ ở phía trên và để đồ đạc của chúng ở dưới.

D: Nghe có vẻ hợp lý, đúng không nào? Chà, có gì khác trong đó mà em có thể nhìn thấy nữa không?

B: Không. Em đã thực sự sẵn sàng để đi rồi.

D: Ý em là sao?

B: Em đã sẵn sàng để rời đi. Sẵn sàng ra ngoài và về nhà.

D: Did You say they made you go to sleep?

D: Em đã nói chúng bắt em đi ngủ đúng không?

B: Chúng đưa em vào căn phòng đó. Và em buồn ngủ đến mức em không thể tỉnh táo được. Và sau khi em vào đó rồi, em … em không nhớ nữa. Em chỉ đang ngủ thôi.

D: Chúng đã làm gì để khiến em buồn ngủ?

B: Em nghĩ họ chiếu những cái đèn đó vào người em. Nó làm cho em đi vào giấc ngủ.

D: Chà, em đã tự mình đứng dậy trên bàn phải không?

B: Không, chúng đặt em ở trên đó, vì em quá buồn ngủ. Em như thể vừa … lơ lửng trên đó. Nhưng chúng đã nâng em lên. Và sau đó em đã kiệt sức. Em nghĩ rằng ánh sáng khiến em rơi vào trạng thái đó. Những cái đèn thật lạ lẫm. Chúng làm đủ mọi thứ. Khi ánh sáng chiếu vào thì không thể đi đâu khác. Và khi nó kéo em vào, em phải đi cùng với nó, bởi vì em không thể làm gì khác. Và sau đó ở bên trong, em biết nó có màu hơi hồng, nhưng vẫn hơi trắng, với một chút màu vàng hồng trong đó. Đó là bởi vì nó quá sáng. Nó giống như ánh sáng mặt trời có màu vàng hơi hồng. Chị biết đấy, không phải là màu vàng hồng. Nó có thể khiến chị đi vào giấc ngủ hoặc đánh thức chị. Chắc là nó có khả năng làm mọi thứ.

D: Nhưng ngay cả khi em đã đi ngủ, em vẫn nhớ được, và em có thể cho chị biết những gì đã xảy ra khi em ở trên bàn chứ.

B: (Dịu dàng) Chúng nghiêng người về phía em. Và chúng đã kéo cái đèn đó xuống. Và chúng đã chiếu đèn trên khắp cơ thể em.

D: Chúng đang tìm kiếm điều gì vậy?

B: (Trẻ con) Chỉ để xem em được tạo ra từ cái gì. Sau đó, mọi thứ giống như trong phòng ngủ khi chúng bò lên khắp giường của em.

D: Chúng là cùng một loại à?

B: Em không nghĩ chúng giống nhau. Chúng nhẹ hơn.

(Cảm xúc) Em nghĩ chúng chỉ đang nhìn, nhưng em không thể cử động. Em không thể nói chuyện.

D: Không sao đâu. Em có thể kể với chị.

B: Tuy không đau, nhưng em không thể cử động. Nó chắc chắn là rất đáng sợ. (Em ấy sắp òa khóc.) Và chúng chạm vào em, nhưng đó không phải là lý do tại sao em không thể cử động. Em không thể cử động bằng mọi cách. Điều đó giống như việc em bị đóng băng.

D: Em có nghĩ rằng nó có liên quan gì đó đến cái đèn đó không?

B: Cái đèn hoặc là cái bàn.

D: Cái bàn đó trông như thế nào?

B: Em không cảm thấy nó, vì em không thực sự nằm trên đó. Em lơ lửng ở bên trên. Em cảm thấy nó lạnh. Nhưng giống như em đang nằm trong không trung.

D: Chúng đang làm gì khi chúng nhìn em?

B: Chúng đang tạo ra những tiếng động nhỏ. (Em ấy tạo ra những tiếng ríu rít khe khẽ hoặc những tiếng nói chuyện the thé). Giống như chúng đang nói chuyện không ngừng nghỉ.

 Phần lớn các trường hợp mô tả rằng các sinh vật giao tiếp bằng tinh thần hoặc thần giao cách cảm, và không tạo ra bất kỳ âm thanh nào. Nhưng một số ít, trong cuốn sách này và cuốn sách “Di sản của những vì sao” của tôi, diễn tả một cách giao tiếp bằng miệng, the thé, đôi khi có giai điệu.

D: Em có thể hiểu được không?

B: Không. (Em ấy tạo ra một số âm thanh ríu rít hơn). Giống như những con kiến ​​nhỏ. Những con kiến nhỏ xíu bận rộn ấy.

D: Đó là một cách nói chuyện vui nhộn, phải không? Chúng còn làm gì khác nữa không?

B: Không làm gì hết. Chúng đã đi xuyên qua, và chúng để cái đèn đó vào trong bức tường. Bằng cách nào đó, nó vừa khít với bức tường.

Giọng em ấy bây giờ không còn khó chịu nữa. Ngay sau khi chúng kết thúc, em ấy đã bình tĩnh lại.

B: Giống như tất cả bọn chúng đều ở xung quanh em. Chị biết đấy, cảm giác giống như bị ngộp thở.

D: Tại sao chúng lại gần như vậy?

B: Chúng đang tìm kiếm. Em nghĩ chúng đang tìm mọi cách để xuyên qua em.

D: Tất cả các cách xuyên qua em ư? Em có nghĩ rằng họ có thể làm điều đó không?

B: Với những cái đèn đó, họ có thể. Vâng. Tất cả các cách để xuyên qua. Đó là lý do tại sao em không ở trên bàn, vì vậy mà họ cũng có thể làm điều đó bên dưới. Họ có thể làm điều đó với cái đèn. Sau đó, họ bắt đầu lùi lại. Và giống như em đang chìm trong giấc ngủ màu hồng. Và em đã rời khỏi khu vực bàn và quay trở lại. (Tay chuyển động).

D: Cứ trôi nổi như vậy à?

B: Vâng. Nhưng sau đó em đứng thẳng dậy. Và rồi, đi theo ánh sáng được đem trở lại qua phòng khác. Và rồi em rời đi.

D: Em vừa bước ra khỏi cửa à?

B: Vâng. Đã đi bộ xuống đoạn đường dốc. Và em đã quay về khu rừng.

D: Chị tự hỏi tại sao chúng làm tất cả những điều đó?

B: Em không nghĩ mình có thể thắc mắc quá nhiều. Chúng làm tất cả những thứ vô nghĩa này. Lần duy nhất chúng nói chuyện là khi chúng đang kiểm tra cơ thể em, vì vậy em nghĩ nó có liên quan đến điều đó. Nhưng giống như chúng khiến ta tê liệt, và ta không thể suy nghĩ nhiều, hay băn khoăn quá nhiều. Đặc biệt là khi em còn nhỏ, vì chúng lớn hơn em. Nhưng nếu đó là một người trưởng thành, chúng sẽ không lớn hơn.

D: Chúng trông có vẻ không cường tráng lắm, nhưng em lại nghĩ chúng nâng em lên!

B: Cái đèn đã làm điều đó.

D: Chà, đây có phải là lần đầu tiên em đến nơi đó không?

B: Không. Nhưng đó là lần đầu tiên em đến đó từ trong rừng. Những lần khác chúng chỉ đến và đưa em ra khỏi giường.

D: Vậy thì nơi này quen thuộc với em đúng không? (à đúng rồi) chà, em có biết Patricia có còn ở đó cùng em không?

B: Em không nhớ tới Patricia cho đến khi tụi em chạy ra khỏi rừng. Nhưng căn phòng đó không lớn lắm. Em không biết chị ấy có thể ở đâu. Em không nhìn thấy chị ấy. Nhưng những cái đèn đó đã làm tất cả mọi thứ. Vì vậy, (khó hiểu) chị ấy có thể… đã ở đó và em đã không nhìn thấy chị ấy.

D: Nhưng em đã thức dậy đúng lúc em thoát ra ngoài à?

B: Em nhớ đã đi bộ xuống đoạn đường dốc, và đang ở trong rừng. Và sau đó em không nhớ gì trong vài phút. Và sau đó em và Patricia cười khúc khích chạy ra khỏi rừng.

D: Điều gì đã xảy ra với cái đèn lớn trông giống như nửa vòng tròn đó?

B: Em không biết. Tụi em đã để nó trở lại trong khu rừng.

D: Nhưng em bảo rằng chúng sẽ vào phòng của em và bắt em đi à?

B: Uh-huh. Điều đó thật đáng sợ. Em không thích điều đó một chút nào cả. Đôi khi họ làm chuyện đó trong phòng của em, và khiến em sợ phát khiếp. Những lần khác chúng đưa em ra khỏi phòng.

D: Chúng đưa em đi như thế nào?

B: Qua cửa sổ.

D: Chúng bế em ra ngoài cửa sổ?

B: (Trầm trọng hơn) Chúng không cần phải bế em. Cái đèn đó đưa em đi. Giống như đi thang cuốn, ngoại trừ việc tất cả đều là ánh sáng.

D: Cửa sổ có đang mở khi chúng làm điều này không?

B: Không quan trọng là nó có mở hay không. Nếu nó không mở, tụi em chỉ cần xuyên qua nó.

D: Đó giống như phép thuật, đúng không?

B: Uh-huh. Đúng là phép thuật.

D: Chà, nếu ai đó vào phòng khi em bị bắt đi, em nghĩ họ có thể thấy em nằm trên giường không?

B: Chúng sẽ không cho bất kỳ ai vào. Chúng không bao giờ bị bắt. Em nghĩ chúng khiến cho thời gian đứng yên. Em nghĩ đó là những gì chúng đã làm.

D: Có phải lúc nào bọn chúng cũng giống giống nhau không?

B: Không. Có một số trông hơi khác. Chúng trông giống như thân hình con sâu với tay và chân.

D: Ý em là dài và gầy đúng không?

B: Thân hình gồ ghề. Chị biết con sâu bướm có những cái bướu trên lưng chúng chứ?

D: Đúng, giống như những đường gờ?

B: Vâng. Những kẻ đó chỉ là những người đưa tin. Em biết chắc là vậy.

D: Những người gồ ghề à? Điều gì khiến em nghĩ chúng là những người đưa tin chứ?

B: Lần duy nhất em nhìn thấy chúng là khi chúng đưa em đi từ chiếc giường của em bằng cái đèn đến căn phòng này, và sau đó chúng biến mất. Đó là lần duy nhất em nhìn thấy chúng. Và chúng nói chuyện với em. Chúng không nói chuyện bằng miệng. Giống như chúng là y tá. Chị biết một y tá dìu dắt chị như thế nào khi chị bước xuống sảnh chứ? Đó là cách mà chúng làm với em. Và em nghĩ đó là tất cả những phần việc của bọn chúng.

D: Chúng nói gì với em vậy?

B: “Hôm nay bạn khỏe không?” Chúng không nói điều đó. Chúng chỉ nghĩ tới điều đó, và ta biết chúng đang nghĩ nó. Và giống như chúng đang đối xử tốt, bởi vì chúng biết chúng phải đưa em đến đó.

Loại này cũng đã được kể đến trong các trường hợp khác, ví dụ, trong cuốn sách “Những người trông nom trái đất” của tôi. Điều thú vị là họ gọi đó là y tá vì cảm giác quan tâm đến họ trong khi những người khác lạnh lùng, mất tập trung và thường không quan tâm. Các đối tượng nói rằng họ có cảm giác đó là những nữ y tá mặc dù không có căn cứ để xác định giới tính.

 

D: Những người đó có khuôn mặt như thế nào?

B: Chúng giống như những người khác thôi, nhưng đen hơn và thô hơn. Chúng không trơn. Chúng không được gọn gàng cho lắm.

D: Khuôn mặt của chúng cũng gồ ghề à? (Không) Mắt của chúng trông như thế nào?

B: Chúng cũng có đôi mắt siêu to đen láy.

D: Chỉ da của chúng là khác biệt thôi hả?

B: Chà, em nghĩ chúng cũng béo hơn nữa.

D: Chúng có tóc không?

B: Không, không có một cọng tóc nào, mà giống râu ấy. Nó mọc khắp cơ thể của họ, những sợi lông ngắn, cứng. Không sát nhau lắm, chỉ ở đây và ở đó trên cơ thể nhỏ màu nâu của chúng.

D: Thân hình thô ráp, gồ ghề à?

B: Da thật sự thô ráp. Không giống như da bò. Có lẽ giống da heo hơn. Em nghĩ chúng là những người thợ.

D: Không ai trong số những người này mặc quần áo, phải không?

B: Không, không. Chúng không cần phải làm vậy.

D: Vậy, làm thế nào để chúng đưa em về lại phòng của em?

B: Em không biết. Em luôn luôn thức dậy và em đã ở đó. Em đoán họ đưa em về lại theo cách tương tự, nhưng chị nghĩ mà xem, lúc đó em đang ngủ.

D: Chà, những người này có làm điều tương tự với cái đèn ở trên bàn mỗi khi em đến đó không?

B: Em không đoán là nó luôn luôn giống nhau. Đôi khi chúng làm rối tóc em. Chúng lấy vài sợi tóc, và lấy một ít máu của em.

D: Bọn chúng làm điều đó bằng cách nào?

B: Chúng chỉ hút nó ra một cách nhanh chóng. Chị biết đó, giống như sử dụng ống hút vậy. À, cái này nhỏ hơn một chút. Bọn chúng không hút nó hay dùng kim tiêm hay bất cứ thứ gì khác, chúng chỉ khiến cho máu chảy ra thành một dòng nhỏ để chúng lấy mẫu. Ngay qua da của em. Em không thể nhìn thấy một thiết bị nào. Em không nghĩ là chúng có.

D: Nếu máu chảy ra qua da của em, nó sẽ đi tới đâu?

B: Vào một số cái vật dụng …nho nhỏ. Một cái lọ nhỏ. (Tay chuyển động) Và chúng đã lấy một ít nước tiểu của em. Chúng cúi xuống đó với một cái lọ, và … chúng làm điều đó.

D: Bọn chúng biết làm mọi thứ, phải không? Chị thắc mắc tại sao chúng tiếp tục làm như vậy?

B: Em đoán bọn chúng đang cố gắng tìm hiểu nhiều thứ hơn. Chúng không giữ em lâu. Em đoán chúng không muốn bố mẹ của em biết, hoặc bất kỳ ai khác biết, bởi vì dường như không ai biết về chúng. Chị không nói về chúng. Em không nói về chúng. Nó giống như chỉ là … hư không.

D: Nó tách biệt với em, ý em là sao?

B: Đúng. Và vì vậy chúng không giữ em lâu, bởi vì nếu chúng làm vậy có lẽ chúng sẽ bị phát hiện. Có lẽ chúng không hoàn thành tất cả cùng một lúc, đó là điều em đang nghĩ tới. Vì chúng không giữ em lâu nên có lẽ chúng tiếp tục đưa em về để làm việc khác.

D: Điều đó có lý. Nhưng quan trọng là, chúng không làm tổn thương em, phải không?

B: Bọn chúng không làm đau em, nhưng em không thích việc chúng đặt em lên cái bàn giống như vậy và sau đó chúng ở trên người em.

D: Chà, và em không thể di chuyển. Hơi đáng sợ đấy. Chị đoán bọn chúng làm vậy là vì có mục đích.

B: Em không hề quan tâm một chút nào. Em nghĩ nó khá rắc rối, bởi vì chúng lén lút lắm. Nhưng giống như là một thế giới hoàn toàn khác. Và chúng không nói về điều đó với thế giới này. Em không biết tại sao, nhưng nó chỉ là như vậy.

D: À, nếu chị đến gặp em lần nữa, em sẽ kể thêm nhiều điều hơn cho chị chứ?

B: Em đoán vậy.

D: Bởi vì chị rất thích thú và chị thích nói chuyện với em. Và chị không kể với ai khác. Không đời nào chị khiến em gặp rắc rối.

B: Chị biết đấy, em không nghĩ rằng chị sẽ khiến em gặp rắc rối thêm nữa. Em không nghĩ rằng chúng thậm chí còn đến lần nào nữa không.

Giọng em ấy bây giờ đã trưởng thành hơn. Beverly rõ ràng đã bỏ đứa trẻ đó ở lại.

Khi Beverly được đánh thức, điều duy nhất em ấy nhớ về phiên thôi miên này này là điều gì đó về sa mạc và ánh sáng hồng nhạt. Đó là tất cả. Bởi vì một cơn bão khủng khiếp đã tràn tới trước khi tôi có thể rời khỏi nhà của em ấy, tôi đã ở lại và ăn bữa tối với Beverly. Em ấy muốn nghe một phần của đoạn băng. Khi em ấy lắng nghe, nó như thể em ấy đang nghe lần đầu tiên. Beverly chết lặng. Em ấy hoàn toàn không nhớ gì về nó, và luôn nói rằng hẳn em ấy đã bịa ra.

Chúng tôi gặp lại nhau vài ngày sau đó trong một phiên thôi miên khác. Vì sự đột phá trong phiên trước, tôi muốn tập trung vào trải nghiệm UFO của em ấy. Tôi muốn tìm hiểu về thời gian ở Houston khi em ấy nói rằng đã nghe thấy tiếng tàu vũ trụ ở sân sau của mình, nhưng thay vì đứng dậy để kiểm tra, em ấy lại đi ngủ. Em ấy cũng trầm trọng hơn vì chồng cô đã không tỉnh dậy.

Trong lúc Beverly đang ở trong trạng thái thôi miên, tôi bảo em ấy quay lại khoảng những năm 1973 đến 1975 khi em ấy sống ở Houston, Texas. Tôi yêu cầu em ấy quay trở lại vào buổi tối với trải nghiệm bất thường khi nghe thấy tiếng động ở sân sau nhà mình. Khi tôi đếm, Beverly ấy tự động quay trở lại đêm đó. Đó là năm 1974, và em ấy chuẩn bị đi ngủ.

B: Tụi em có một phòng tắm rất lớn thông với phòng ngủ. Một lối đi có mái vòm.

D: Và bây giờ em đã đi ngủ. Em đã đi ngủ ngay lập tức chứ? (Uh-huh) Em đã ngủ suốt đêm đúng không?

B: Không. Ai đó đã vào phòng ngủ của em.

D: Ai đó mà em biết à?

B: Không. Đó là một bóng hình. Nó gần giống như một bóng ma. Nó cao, to. Em nghĩ đó là một nhân vật nam. Và nó yểu điệu.

D: Yểu điệu ư?

B: Giống như nó có thể uốn lượn trong gió. Nó gần giống như trong suốt.

D: Như thể nó không có da thịt à?

B: Vâng. Nó cao. Màu trắng. Gần giống như một con ma, nhưng nó không phải là một con ma. Nó trắng xám. Và nó dường như chỉ lơ lửng ở ngưỡng cửa bên trong căn phòng.

D: Sau đó điều gì đã xảy ra?

B: Em chỉ nằm đó và nhìn nó. Nó đi vào phòng, giữa ô cửa và cửa tủ quần áo. Em biết nó ở gần giường hơn. (Tạm dừng) Và em đã rất sợ hãi.

D: Đúng rồi, chị nghĩ em sẽ sợ. Em không ngờ được điều đó. Sau đó điều gì đã xảy ra?

B: Em không biết. Chỉ là … (Thở dài) Em biết có thứ gì đó trong sân.

D: Làm thế nào em biết được điều đó?

B: Nó có một cái đèn. Nó giống như một vầng sáng. Có thứ gì đó đáp xuống sân. (Nói với sự chịu đựng) Và em đoán đó là một con tàu vũ trụ, và nó đang phát sáng.

D: Điều gì khiến em nghĩ đó là một con tàu vũ trụ chứ?

B: Em chỉ biết là như vậy thôi.

D: Nó không phải là một chiếc xe hơi hay một cái gì đó tương tự à?

B: Ở sân sau thì không. Không có cách nào để đến đó bằng xe hơi. Tất cả đều được rào lại bằng một hàng rào cao kín đáo làm bằng gỗ.

D: Không có ai ở ngoài đó với một cái đèn hay hoặc là cái gì đó khác à?

B: Em không nghĩ vậy. Nó nằm thấp trên mặt đất. Em chỉ nhìn thấy vầng sáng xuyên qua … có những mành tre trên cái cửa sổ ba cánh lớn.

D: Vầng sáng trông rất rộng lớn à?

B: Không. Nó thực sự rất nhỏ. Sân sau của em không có bất kỳ cái cây nào hết. Có lẽ duy nhất nhà tụi em là không có cây cối trong sân sau. Tụi em đang nghĩ đến việc đưa một cái bể bơi vào.

D: Em có nghe thấy gì không?

B: Em không biết mình có nghe thấy gì bên ngoài không. Giống như khi ta biết có âm thanh nào đó, nhưng ta không nghe thấy gì cả bằng tai của mình. Đó có lẽ là điều đã đánh thức em. Và sau đó em cảm thấy thứ này ở trong phòng. Nó nằm ở phía đối diện giường nơi mà em đang ngủ.

D: Ở bên phía chồng của em à?

B: Uh-huh. Nhưng anh ấy không thức giấc.

D: Tiếng ồn đã đánh thức em nó nghe như thế nào?

B: Nó giống như một cái máy khoan công suất lớn, hoặc một cái cưa công suất lớn, hoặc một cái gì đó tương tự như vậy, nhưng không nặng bằng. Đó là một âm thanh nhẹ hơn thế, nhưng đó là âm thanh xoay vòng nhanh.

 

D: Và em nghĩ đó là thứ đã đánh thức em ư?

B: Em nghĩ vậy. Ý em là, nó không ồn ào. Nó giống như khi ta cảm thấy có một sự hiện diện và ta biết có ai đó ở đó. Và nó khiến ta giật mình.

D: Vậy thì chính nó không phải là âm thanh. Mà nó là âm thanh và cảm giác của một sự hiện diện.

B: Vâng. Nếu âm thanh đó là một cái gì đó khác, mức độ ồn ào đó sẽ không thể đánh thức em. Nhưng mà có một cảm giác đi cùng với nó.

D: Em có nghĩ đây là lý do tại sao chồng của em không nghe thấy nó không?

B: Có lẽ vậy. Anh ấy nói anh ấy ngủ mơ màng hơn em, nhưng dường như anh ấy không ngủ.

D. Nhưng bất cứ khi nào em nhìn thấy bóng dáng này, em cũng nhìn thấy ánh sáng ở sân sau trong cùng khoảng thời gian đó ư? 

B: Em nghĩ rằng em đang ở đối diện với ngưỡng cửa, vì vậy em đã nhìn thấy hình bóng đầu tiên. Nhưng em có thể biết đằng sau em, tại cửa sổ, có một vầng sáng chiếu qua các mành tre.

D: Nó không thể là mặt trăng nhỉ?

B: Nó giống ánh sáng mặt trăng, ngoại trừ nó không chiếu từ trên cao xuống. Nó giống như một ánh đèn hội tụ. Còn chị biết mặt trăng thì chiếu ánh sáng như thế nào rồi chứ?

D: Đúng. Nhưng chị nghĩ thật thú vị khi em cho rằng đó là một con tàu vũ trụ.

B: Đó là một con tàu vũ trụ mà.

D: Chà, chuyện gì đã xảy ra sau đó?

B: Cái hình bóng đó ở gần phía chồng em, nhưng anh ấy không hề biết. Nó đã ở đó vì em. Em biết điều đó, bởi vì việc này đã diễn ra trong một thời gian dài.

D: Đó không phải là chuyện mới xảy ra. Điều gì diễn ra sau đó?

B: Em không biết. Nó chỉ dừng lại ngay đó. Em đang nằm trên giường, phía bên trái và em đang quay mặt ra cửa nhìn vào hình bóng này, và biết rằng vầng sáng này đang ở ngoài kia trong sân sau. Nó chỉ bị đóng băng ngay tại đó. Và nó khiến em sợ hãi. Chị biết đó. (Thở dài) có một cảm giác sợ hãi trong em.

D: Đó là lý do tại sao chị nghĩ điều quan trọng là em phải nhìn vào nó và tìm hiểu xem những gì đã xảy ra. Sau đó em sẽ không phải sợ nó nữa. Một khi chúng ta biết điều gì đã xảy ra, chúng ta có thể vượt qua nó và không băn khoăn về nó nữa. Em có thể nhìn thấy nó bởi vì tiềm thức của em ghi lại mọi thứ, mặc dù cơ thể em không nhớ một cách tỉnh thức. Vì vậy, một cái gì đó đã xảy ra để ngăn chặn tâm trí có ý thức ngay tại thời điểm đó. Chuyện gì đã xảy ra? Bóng hình đã làm gì?

B: Bóng hình đó đi vòng qua chân giường và ra ngoài cửa sổ. Và em đã làm theo nó. (Hờ hững) Em bước ngay qua cửa sổ.

D: Điều này tương tự như những gì em đã từng làm khi còn nhỏ, có phải không?

B: Uh-huh. Em nghĩ đó là lý do tại sao em cảm thấy sợ hãi về nó.

D: Tại sao lần này lại khiến em sợ hãi?

B: Em nghĩ nó luôn khiến em sợ hãi. Tất cả mọi chuyện. Chị không muốn đi xuyên qua các cửa sổ đâu.

D: Đúng vậy. Chà, em có nghĩ rằng nó giống như một giấc mơ mà em có thể làm những điều như vậy trong mơ không?

B: Có thể chứ. Có thể linh hồn của em đang thoát ra ngoài, còn cơ thể của em thì không. Em không biết. (Thở dài) Có thể chúng khiến em trở thành phi vật chất hóa? (Em ấy không chắc về từ đó.) Và vật chất hóa trở lại. Có lẽ cơ thể của em đã biến mất.

D: Em có nghĩ lúc chồng em thức dậy, anh ấy sẽ không nhìn thấy em trên giường không?

B: Anh ấy sẽ không thức dậy đâu. (Đang suy tưởng) Cơ thể của em phải rời đi. Nếu cơ thể của em không biến mất, tại sao bọn chúng lại quan tâm đến việc người khác thức dậy hoặc ai khác sẽ vào đó chứ? Chúng đã làm điều đó khi em còn nhỏ, chị biết đấy, trong phòng ngủ của em. Và chúng làm điều đó trong phòng ngủ của em bây giờ, ngay ở đây. Phòng ngủ của em ở cuối nhà. Đó là một căn phòng đẹp, nhưng em luôn sợ hãi khi ở trong đó. Phòng em ở vị trí rất xa so với phần còn lại của ngôi nhà.

D: Em đã đi đâu khi em đi ra ngoài cửa sổ?

B: Ở ngoài sân. Tới một con tàu vũ trụ. Đó là một vòng tròn nhỏ tí xíu… à, không phải là nhỏ, nó đủ lớn để vào được. Nó phải là thứ mà bọn chúng đã đem tới. Chị biết đấy, có những cái lớn hơn, đây là cái nhỏ. Và nó có màu bạc, có hình vòm ở trên cùng, và nó có viền xung quanh phần giữa – không phải ở giữa – khoảng 3/4 đường xuống hình mái vòm. Và nó có một cái bụng nhỏ bên dưới. Không phải bụng béo mà là bụng hơi nông, trên phần đáy. Phần đáy không có nhiều mái vòm như phần trên. Toàn bộ thứ này chỉ cao ba hoặc bốn bộ Anh.

D: Vầng sáng phát ra từ đâu?

B: Phát ra từ cái viền đó. Như thể mặt trong của nó được lót bằng một thứ gì đó và thứ đó phát ra một vầng sáng.

D: Sau đó điều gì xảy ra?

B: Tụi em bay lên trên không trung và rời đi.

D: Bên trong nó như thế nào?

B: Nó nhỏ, và hơi chật chội. Em chỉ đi vào và ngồi xuống, rồi bọn chúng bay đi. Nó gần giống như một chiếc ghế salon. Ý em không phải là một chiếc ghế dùng ngoài sân, ý em là như ghế của nha sĩ hoặc một cái gì đó tương tự mà chị nằm tựa lưng vào ấy.

D. Chà, vậy sinh vật đó đi cùng em à?

B: (Ngạc nhiên) Em nghĩ nó quá cao để có thể ở đây, trừ khi nó, nó…. Em nghĩ những gì trong phòng biểu hiện bản chất của sinh vật đó.

D: Em có nghĩ rằng đó là lý do tại sao nó mỏng manh không?

B: Uh-huh. Em nghĩ giống như nó chiếu một phần của mình vào căn phòng. Nhưng cơ thể nặng nề hơn của nó đang ở trong con tàu vũ trụ. Có hai hoặc ba con khác ở đây với em. Chúng nhỏ bé.

D: Bọn chúng cũng đang ngồi xuống à?

B: Không, chúng đang đi đi lại lại. Không có nhiều không gian. Nó thấp hơn hàng rào, cái hàng rào cao sáu bộ Anh. Và em đoán có chỗ cho chúng đi lại. Chúng không cao như hình chiếu đó. Chúng thấp hơn. Em phải ngồi xuống. Chà, em đoán là em có thể đứng dậy, nhưng chỉ ở giữa chừng. (Beverly là một phụ nữ thấp bé, chỉ cao hơn năm bộ Anh một chút). chúng dường như không cần phải ngồi ở bất cứ đâu. Bọn chúng đang làm mọi thứ. Chị biết đấy, đi vòng quanh, chạm vào các nút bấm và nhìn vào màn hình.

D: Tất cả những thứ đó ở đâu?

B: Nó ở trong các bức tường ở bên trong. Nó giống như một buồng lái nhỏ.

D: Có gì trên màn hình không?

B: Có bản đồ và đồ thị. Em không thực sự nhìn thấy, nhưng em chắc chắn là như vậy. Ý em là, em đã liếc nhìn.

D: Ý em là như một bản đồ trên mặt đất….

B: Ở trên bầu trời. Em đoán nó giống như một bản đồ hàng không, chị biết đấy, dùng cho tàu bay. Chắc chắn có những con đường được sử dụng lặp đi lặp lại, trong hệ thống máy bay. Và những gì trên màn hình là một số loại đường bay để đến một nơi nào đó. Nó gần giống như một đồ thị. Có lẽ đó là một loại radar nào đó. Nó có các đường thẳng đứng và các đường ngang, giống như giấy kẻ ô vuông. Có một số màn hình khác thì không. Chúng chỉ có các đường giao nhau và đi theo các hướng khác nhau. Và em không biết chúng có ý nghĩa gì nữa. Màn hình màu trắng. Các đường đều có cùng một màu đen. Có thể đó là một hệ thống máy tính. Đó là những gì mà em thấy ở những cái màn hình đó, giống như màn hình máy tính vậy. Mọi thứ đều được đặt vào trong bức tường. Bức tường được cong cong.

D: Được rồi. Những sinh vật bé nhỏ này trông như thế nào?

B: Chúng có màu xám. Chúng thấp, chỉ cao ba hoặc bốn bộ Anh và da chảy sệ.

D: Chảy sệ ư? Ý em là gì?

B: Chúng gồ ghề. Chúng không mịn hoặc trông mềm mại. Chà, chúng có thể mềm mại, nhưng chúng chảy sệ. Giống như ET (sinh vật ngoài hành tinh) trong bộ phim cùng tên, nhưng không phải đến mức độ như vậy. Nó trông thô, nhưng có thể không phải. Thật ra, em nghĩ rằng có thể là không phải như vậy, khi ta thực sự chạm vào nó ấy, nhưng nó có hiệu ứng là trông thật dày và thô.

D: Em có thể nhìn thấy khuôn mặt của chúng không?

B: Uh-huh. Chúng có khuôn mặt nhỏ. Không có tóc. Em không nghĩ chúng có cái tai nào không, hoặc nếu có, chắc là nó lõm vào trong. Nó không lộ ra ngoài như tai của chúng ta. Chúng có đôi mắt giống với mắt của em. Không phải là đôi mắt to đen. Chúng có tròng trắng của mắt. Chúng có mũi và miệng.

D: Giống em à?

B: Không, khuôn mặt của họ chảy sệ, giống như một người già, già nua với khuôn mặt thực sự nhăn nheo, hàng triệu nếp nhăn trên khắp khuôn mặt. Ngoại trừ đầu của chúng thực sự nhỏ, lớn hơn ở phần trên so với phần dưới, gần như hội tụ tại một điểm ở cằm. Và khuôn mặt của họ trông giống như bị bóp méo. Giống như một con chó Bắc Kinh có khuôn mặt gãy.

D: Chị hiểu ý em. Em có thể nhìn thấy bàn tay của chúng khi chúng điều khiển các nút bấm chứ? (Uh-huh.) Chúng có bao nhiêu ngón tay?

B: Chúng có năm ngón tay.

D: Năm ngón tay ư? Bốn ngón tay và một ngón tay cái à?

B: Uh-huh, nhưng chúng dài hơn của em.

D: Từ chỗ em đang ngồi, em có thể nhìn thấy bàn chân của chúng không? (Uh-huh) Nó trông như thế nào?

B: Nó gần như là có màng. Chúng có năm ngón chân. Và bàn chân của chúng hơi to so với cơ thể của chúng. Các ngón chân xòe rộng và có một lớp màng ở giữa. Nhưng không giống như chân con vịt. Không nhiều màng như vịt. Đây có thể nói là một sự giao nhau giữa bàn chân của chúng ta và lớp màng trên của bàn chân vịt.

Kiểu bàn chân này cũng đã được ghi lại trong “Di sản của những vì sao”. Một loại tương tự có hình dạng giống như một chiếc găng tay với xương bàn chân xuất hiện như những đường gờ bên dưới da.

 

D. Em có thể nhìn thấy bất kỳ khác biệt nào về giới tính không?

B: Không. Em nghĩ chúng là người đưa tin hoặc công nhân. Em không nghĩ chúng là người máy. Nếu là vậy, chúng phải là những con rô bốt cực kỳ tinh vi. Em nghĩ chúng là sinh vật sống.

D: Chúng có đang giao tiếp với em theo bất kỳ cách nào không? (Không) Nhưng khi em ngồi xuống chiếc ghế đó. Rồi điều gì xảy ra sau đó?

B: Chà, nó cất cánh. Bay lên khỏi sân, rồi rẽ trái.

D: Em có thể cảm thấy sự dịch chuyển à?

B: Rất ít. Em cảm thấy được nâng lên khỏi mặt đất. Nhưng sau đó, rất ít…. Ta không cảm thấy bất kỳ loại chuyển động nào. Ta có thể cảm thấy một ngã rẽ. Nhưng miễn là ta đang đi lên hoặc theo một hướng, thẳng về phía trước hoặc phía sau hoặc bất cứ điều gì, ta sẽ không cảm thấy bất kỳ chuyển động nào.

D: Em có nghe thấy gì không?

B: Không. Nó diễn ra rất nhanh. Nó đi đến một con tàu khác trên bầu trời.

D: Có bất kỳ cái cửa sổ nào mà em có thể nhìn ra ngoài không?

B: Có. Em không biết là có cho đến khi tụi em vào trong. Có một số cửa sổ giống như ô cửa nhỏ trên tàu bay. Và tất cả đều ở xung quanh phần của mái vòm, nơi mà đường gờ lộ ra. Và em đoán rằng ánh sáng đã phát ra từ đó. Bên trên thứ giống như cái sàn nhỏ đó, và em nghĩ có lẽ ở bên dưới cái sàn đó nữa.

D: Nhưng em không thể nhìn thấy gì ở bên ngoài cửa sổ khi em đang bay ư?

B: Em đang quay mặt ra giữa phòng. Và, không, em không thể nhìn thấy gì cả. Như thể nửa mơ nửa tỉnh.

D: Sau đó, như em đã kể, bọn chúng chuyển sang một con tàu lớn hơn à?

B: Nó di chuyển vào con tàu lớn hơn, từ bên cạnh. Giống như có một lối vào. Và nó đi vào trong. Sau đó mái vòm nâng lên. (Cố gắng diễn tả sao cho đúng). Phần trên nâng lên. Hoặc một phần của nó. Có thể là tất cả. Em không chắc. Có thể một phần mái vòm hoặc một nửa mái vòm được nâng lên ra phía sau, để lộ ra nơi nó đang hé mở. Và sau đó ta chỉ cần ra ngoài và đi bộ xuống một hành lang.

D: Chúng đang đi với em ư?

B: Uh-huh. Hành lang rất bóng loáng. Rất trơn. Những bức tường sáng màu. Em không nghĩ chúng có màu trắng, nhưng có thể là màu trắng ngà. Chúng được làm từ kim loại nhẹ hoặc là vải. Em không biết sàn được làm từ cái gì. Và nó giống như một đường băng trong sân bay, đại loại như vậy. Giống như một đường hầm, cỡ lớn. Bọn chúng đưa em vào một căn phòng. Nó chỉ là một căn phòng nhỏ, và chúng đã đưa em vào đó. Không có cái bàn nào cả. Nhưng vì thế cho nên chúng có thể đi vào và quan sát em.

D: Là ai vậy? Những người nhỏ bé đó à?

B: Không phải, là những dạng khác. Em đoán là chúng đến gặp… chỉ huy của bọn chúng. Và rồi chúng bước vào. Em nghĩ đây giống như một cuộc kiểm tra tâm lý. Không có lời qua tiếng lại. Chúng vây quanh em, và kiểm tra não của em. Chúng giống như côn trùng. Em đoán đó là thứ em từng thấy khi còn nhỏ, nhưng bọn chúng không thực sự là côn trùng. Chân tay của chúng rất linh hoạt, rất dễ uốn cong và góc cạnh. Chúng có thể cao một bộ Anh hoặc cao hơn những con nhỏ bé chảy sệ. Có thể là bằng kích thước với em, cao bằng em. Chúng có màu xám trắng, vì vậy chúng có màu nhạt hơn so với những con có bộ dạng chảy sệ nhỏ bé. Bọn chúng là… là những chủng loại mà chị đã nhắc đến tên của nó lúc trước? Chúng không đáng kể. Lông lá. Khác với những con chảy sệ không có lông.

D: Em đã kể rằng có một con trong phòng ngủ của em có lông?

B: Vâng, đúng rồi đó. Bọn chúng có thể họ phóng chiếu bản thân thông qua những con có bộ dạng chảy sệ bé nhỏ.

D: Em nói rằng bọn chúng có những phần phụ góc cạnh. Vậy chúng có những cánh tay hay ngón tay nào hay không?

B: Có. Bọn chúng có một ngón tay cái và ba ngón tay.

D: Bọn chúng có mang áo quần không?

B: Không. Quần áo có thể sẽ nặng hơn thân hình của bọn chúng, em nghĩ là như vậy. Quần áo sẽ có cân nặng và lượng vật chất nhiều hơn cơ thể của chúng. Hoặc nếu bọn chúng có một lớp che phủ, thì nó giống như một phần cơ thể của chúng.

D: Đó không phải là thứ mà chúng có thể cởi ra, ý em là như vậy đúng không?

B: Chà, có lẽ bọn chúng có thể cởi nó ra, nhưng khi mặc nó vào, nó sẽ trở thành một phần của cơ thể chúng. Em không biết liệu có phải như vậy không, nhưng bọn chúng không mặc quần áo. Hoặc cũng có thể thứ bên ngoài mà em nhìn thấy là quần áo và thực sự có thể tháo rời. Nhưng nó trông không khác biệt. Không có dấu hiệu cho thấy da thịt và áo quần tách rời nhau, chúng dường như hòa vào làm một.

 

Điều này cũng đã được ghi nhận trong các trường hợp khác. Một số sinh vật ngoài hành tinh có làn da mỏng manh dễ bị tổn thương. Ngay từ khi được sinh ra, chúng đã được bao bọc trong một loại chất dạng màng tồn tại xung quanh cơ thể chúng suốt đời để bảo vệ lớp da.

D: Em có nói rằng em không thể biết rõ chúng có bao nhiêu phần phụ vì phòng ngủ rất tối. Nhưng bây giờ em có thể nhìn thấy không?

B: Chỉ có hai cái giống cánh tay và hai cái giống chân. (Chuyển động) Chân uốn cong lên trên tạo thành góc sắc cạnh, và phần dưới của chân cong xuống, nhưng có vẻ như có cả những cái chân khác bên dưới. Và cánh tay cũng tương tự như vậy. Chúng mỏng manh và rất góc cạnh.

Chúng gần như có thể uốn cong mặt phẳng. (Chuyển động)

 

Beverly có vẻ bực bội vì em ấy gặp khó khăn trong việc nói rõ những gì em ấy đang nhìn thấy.

D: Được rồi. Còn có gì khác trong phòng nữa không?

B: Không có gì cả. Căn phòng chỉ là một cái buồng nhỏ, một căn phòng giống như cái hộp.

D: Có ánh sáng trong đó không?

B: Có. Ánh sáng dường như phát ra từ các bức tường. Không có cái đèn cố định nào cả. Ở đây bọn chúng sẽ bật hoặc tắt những bức tường, giống như ta bật hoặc làm mờ các bóng đèn. Em không thấy có cái tay cầm nào cả, nhưng em nghĩ đó là cách mà các bức tường vận hành.

D: Như thể toàn bộ bức tường là một cái đèn phát sáng à?

B: Đúng rồi.

D: Và em theo em, bọn chúng đang vây quanh em, như thể đó là một cuộc kiểm tra tâm lý à? Làm sao em biết điều đó?

B: (Thở dài) Chà, em không biết. Nhưng có điều, bọn chúng chỉ nhìn vào đầu của em. Chúng không chạm vào em. Em biết chúng phản chiếu bằng cách nào đó. Và em không biết bọn chúng đang tự chiếu vào đầu em, hay chúng đang lôi cái gì đó ra khỏi đầu em và nhập vào trong đầu của chúng, hoặc là cả hai.

D: Em có thể nhìn thấy những hình ảnh hiện lên trong đầu khi chuyện này đang diễn ra không?

B: Không. Em chỉ biết vậy thôi. Nó giống như sinh vật đó kéo giãn đầu em ra. Và sau đó con khác làm y như vậy. Và cứ như thế lặp đi lặp lại.

D: Bọn chúng có bao nhiêu con ở trong đó?

B: Chắc khoảng năm. (Khựng lại) Bốn mới đúng.

D: Bốn ư? Và em cảm thấy có một lực kéo giữa tất cả bốn sinh vật đó.

B: Uh-huh. Em không cảm thấy tất cả cùng một lúc. Em cảm thấy nó nhiều hơn từ phía bên này và sau đó từ phía khác. Em nghĩ như vậy bởi vì em đang quay đầu lại và nhận thức được theo hướng đó. Em nghĩ rằng chuyện đó đang diễn ra từ nãy đến giờ. Tất cả đều đang đứng lên. Và giống như bọn chúng đang đi xuyên vào đầu em.

D: Nhưng chuyện đó không làm em cảm thấy khó chịu đúng không?

B: Không, tất cả chỉ là cảm giác không thoải mái. Nó không đau, nhưng bọn chúng đang làm những việc dang dở và thường không thể kết thúc. Và vì vậy em cảm thấy khó chịu. Em không thích như vậy.

D: Như kiểu phiền toái có phải không?

B: Hơn thế nữa. Nó giống như một nỗi sợ hãi. Như thể em đang bị kiểm soát và không thể làm gì được. Giống như khi ta ở trong bệnh viện để sinh con và ta sẽ phải làm theo mọi thứ mà y bác sĩ chỉ định. Ta cứ thế mà sinh con và không thể làm gì khác. Mẹ em luôn nói với em con cái là lộc trời, phụ thuộc vào trời đất.

D: Đúng rồi. Em không thể làm được gì cả.

B: Ta không can thiệp được. Và đây chính là cảm giác của em. Em không biết bọn chúng muốn gì. Em không biết tại sao bọn chúng tiếp tục làm chuyện này. Và em thậm chí không biết bọn chúng nhận được gì từ việc đó. Em không thể có được bất cứ lời giải đáp nào hết.

D: Và em cho rằng chuyện này đã xảy ra trước đây rồi phải không?

B: Ồ, đúng vậy. Chuyện này xảy ra khi em đang còn nhỏ. Có vẻ như tất cả những gì bọn chúng làm là kiểm tra cơ thể của em. Có thể chúng đã đạt được tất cả những gì chúng có thể tìm hiểu, hoặc có thể đây chỉ là một lần kiểm tra như bao lần khác. Ai biết được chứ? Chuyện đó giống như kiểu chúng có thể xâm nhập vào trong đầu của em và thu thập thông tin, hoặc ngắm nhìn và tìm hiểu những gì ở bên trong. Và em không thể làm gì cả.

D: Nhưng chuyện đó có thực sự khiến em khó chịu về mặt thể chất hay tinh thần không?

B: Về mặt thể chất thì nó không làm em thấy khó chịu. Nhưng về mặt tinh thần, nó khiến ta cảm thấy không có quyền riêng tư. Nó giống như bị lột trần về mặt thể xác, ngoại trừ việc nó càng tệ hơn khi bị lột trần về mặt tinh thần. Ta hoàn toàn bị phơi bày. Và bọn chúng không chỉ nhìn vào hiện tại. Khi bọn chúng xâm nhập vào bộ não của ta, chúng sẽ tìm kiếm mọi thứ. Quá khứ đều ở đó. Và không còn gì là bí mật nữa cả.

D: Ý em là toàn bộ những ký ức của em ư?

B: Uh-huh. Và cả kiến thức nữa.

D: Chị muốn biết tại sao chúng lại quan tâm tới những ký ức của em?

B: Em không biết được, ngoại trừ nó giống như toàn bộ câu chuyện của cuộc đời ta đang ở trong đầu ta. Chính ta là người biết điều đó. Đó không phải là chất xám mà bọn chúng đang xem xét. Chúng đang kiểm tra bản chất của sự hiện hữu của ta. Và vì vậy chúng không chỉ kiểm tra ở hiện tại. Khi bọn chúng kiểm soát được tâm trí, chúng tiến hành kiểm tra trong mười năm trước, mười lăm năm trước, hoặc một tuần trước đó. Chúng thu thập những ký ức đó. Chúng tìm thấy thứ mà chúng muốn xem, hoặc chúng cứ lục lọi và tìm thấy được điều gì đó khác. Đó là thông tin, là kiến ​​thức được lưu trữ trong tâm trí của ta. Và cả những xúc cảm nữa.

D: Những cảm xúc của ta ư?

B: Đúng, cảm xúc của ta, có lẽ nhiều hơn bất cứ thứ gì khác. Tại sao bọn chúng lại quan tâm đến những gì em đã làm vào ngày sinh nhật thứ mười của em chứ? Và về mặt thể chất, chúng đã xem xét tất cả những điều đó. Có thể, chủ yếu là kiểm tra bộ não của ta hoạt động như thế nào, cách thức vận hành của tâm trí ra sao và cách thức chúng ta biểu hiện cảm xúc.

D: Bọn chúng đang làm gì với thông tin thu thập được?

B: Em đoán chúng thu nhận vào tâm trí của chúng. Em không biết có đúng như vậy không.

D: Không có máy móc, dụng cụ hay bất cứ thứ gì khác à?

B: Không. Tất cả đều thông qua thần giao cách cảm. Nhưng gần như em có thể thấy sóng ánh sáng đi tới đi lui, giữa đầu của em và đầu của bọn chúng.

D: Giống như dòng điện à? (Đúng rồi) Em đã bao giờ cố gắng giao tiếp với bọn chúng và hỏi họ tại sao chúng lại làm chuyện này chưa?

B: Không phải lần này. Em không thể nhớ ngay bây giờ liệu em có bao giờ hỏi… thật là dại dột nếu như em chưa từng hỏi. Nhưng nếu em có hỏi đi chăng nữa, em nghĩ mình sẽ chẳng đạt được gì, vì vậy em chỉ lờ đi.

D: Chị nghĩ rằng em sẽ rất tò mò.

B: Chà, em đã rất tò mò. Không có lý do gì để giao tiếp, bởi vì bọn chúng đã biết hết rồi.

D: Nhưng em không biết gì cả mà.

B: Bọn chúng biết rằng em tò mò. Bọn chúng biết em muốn hỏi. Chúng biết rằng em không muốn chúng làm chuyện này, nhưng dù sao thì chúng vẫn làm. Không có ích gì khi đặt câu hỏi. Chúng sẽ cho em biết nếu chúng muốn. Sẽ là vô nghĩa khi cố gắng tìm kiếm ngôn từ để diễn tả về chuyện này. Tất cả ở trong đầu của ta. Bọn chúng biết những gì ở trong đó. Và những gì chúng muốn em biết, chúng sẽ cho em biết hoặc cũng có thể là không. Yêu cầu của em sẽ không hiệu quả. Vì vậy, không có ích gì khi đưa ra câu hỏi.

D: Ngoại trừ để thỏa mãn sự tò mò của riêng em thôi không được à.

B: Nhưng sẽ không được gì đâu, bởi vì bọn chúng sẽ không trả lời. Chúng muốn tìm hiểu điều gì đang diễn ra bên trong đầu của chúng ta. Tại sao ư, em không biết… Em đoán vì chúng ta là một giống loài khác biệt. Nếu chúng ta ở một hành tinh khác, chúng ta cũng có thể làm điều tương tự với bất cứ thứ gì ở đó.

D: Có thể lắm.

B: Chúng ta làm điều đó ở nơi này. Chúng ta thử nghiệm với động vật.

D: Chà, chuyện này có kéo dài lâu không?

B: Có thể là 20 phút.

D: Đó có phải là điều duy nhất mà họ làm không? Chỉ là sự trao đổi… à không thực sự là một sự trao đổi, chỉ là kiểu giao tiếp một chiều. (Đúng rồi) Sau đó, điều gì sẽ xảy ra?

B: Họ rời khỏi căn phòng. Và sau đó có ba kẻ đã đưa em xuống phi thuyền đã đến và bắt em, và đưa em quay trở lại chiếc phi thuyền nhỏ. Rồi nó cất cánh bay về nhà của em.

D: Em không nhìn thấy phần nào khác của chiếc phi thuyền lớn đấy ư?

B: Không. Em chỉ biết rằng nó lớn hơn nhiều so với chiếc mà em bước vào, bởi vì chiếc phi thuyền nhỏ đã bay vào bên trong, và dường như nó chỉ là một phần nhỏ so với phi thuyền lớn. Chị biết đấy, thử hình dung về việc có một căn cứ ngoài không gian có thể chứa một nhóm người sinh sống ở trên đó mà xem! Em cảm thấy phi thuyền lớn là cái căn cứ như vậy, nếu không lớn đến mức đó, thì cũng gần được như vậy. Và em không biết tại sao em lại có suy nghĩ đó, bởi vì em không nhìn thấy phần còn lại của nó. Em chỉ có ấn tượng như vậy thôi.

D: Sau đó, điều gì đã xảy ra khi bọn chúng đưa em trở về?

B: Em đã lên một phi thuyền nhỏ. Nó giống như một chiếc tàu con thoi, hay giống như một chiếc trực thăng. Và tụi em rời khỏi đó. Em không nhớ mình đã trở lại mặt đất hay trở lại cái giường của mình.

D: Em không biết nó có hạ cánh xuống sân sau một lần nữa hay không à?

B: Có lẽ nó đã đáp xuống đó, nhưng em không thấy nó. Em không nhớ gì cả. Em không nhớ bất cứ điều gì. Chỉ biết lúc đó là buổi sáng. Em nghĩ bọn chúng có khả năng ngừng các chức năng não bộ của ta. Hoặc mở ra và phơi bày nó, giống như mổ bụng ra, nhưng nó không được thực hiện về mặt vật lý.

D: Nhưng nó không làm em đau đúng không?

B: Không. Không phải về thể chất. Không có gì là đau đớn. Ý em là, nó không giống như hộp sọ của ta bị xé toạc ra.

D: Ngày hôm sau em có gặp vấn đề gì không?

B: Ngày hôm sau em nhớ ra hình bóng này trong phòng của mình. Em nhớ mình đã nghĩ rằng có một chiếc đĩa bay đang đợi em ở ngoài sân, nhưng đó là tất cả những gì em nhớ. Và em tự hỏi liệu mình có nằm mơ không. Em không nhớ mình có bất kỳ tác dụng phụ nào về thể chất, nhưng em nghĩ rằng em bị đau đầu khi bọn chúng khám nghiệm em.

D: Nhưng không sao cả khi đối diện với trải nghiệm và nói về nó. Rồi sau đó chúng ta có thể đưa tất cả vào quá khứ.

B: Có thể lắm. Nhưng nó đã là quá khứ rồi. Vì vậy, không cần bận tâm về nó nữa.

D: Đúng vậy. Nhưng điều quan trọng là, nó không khiến em phiền lòng nữa. Có phải vậy không?

B: Em nghĩ nó đã làm phiền em. Và bây giờ nó vẫn còn làm em khó chịu. Và đó là do những gì nó làm với đầu của ta. Giống như ta phải sống một lời nói dối. Ý em là, ta không thể nói dối hai mươi bốn tiếng một ngày về mọi thứ. Vì vậy, em nghĩ đối với những gì xảy ra ta chỉ cần quên nó đi. Ta ngăn chặn nó. Và sau đó, em nghĩ, điều đó gây tổn thương tâm lý cho đầu của ta.

D: Ý em là sống dối trá ư?

B: Chà, ta phải đóng kịch hai mươi tư tiếng một ngày như thể chuyện đó không tồn tại. Ý em là, không ai khác nghĩ rằng nó tồn tại. Không ai khác nói về điều đó. Và nếu ta biết chuyện đó có xảy ra, thì ta phải sống dối trá để hòa nhập với phần còn lại của thế giới.

D: Bởi vì người không tin em à?

B: Tất nhiên họ sẽ không tin em rồi.

D: Nhưng rất nhiều trong số đó chính em cũng không nhớ, phải không?

B: Đúng. Nhưng đó là điều em đang nói, thật quá khó để sống dối trá hai mươi bốn tiếng một ngày, đặc biệt là khi ta còn trẻ. Vì vậy, em nghĩ rằng tâm trí chỉ xóa bỏ nó. Hoặc bọn chúng làm điều đó, hoặc tâm trí của ta làm điều đó. em không biết nữa. Em nghĩ rằng chúng làm rất nhiều điều. Nhưng em cũng nghĩ rằng về mặt tâm lý, tâm trí của chúng ta che đậy chuyện đó để sống chung với nó. Điều đó giống như sự phớt lờ hàng loạt. Em muốn nói “sự ngờ ngệch hàng loạt”, nhưng nó không phải là sự ngờ nghệch như chúng ta nghĩ về cách sử dụng phổ biến của từ “sự thiếu hiểu biết”. Đó là một sự “phớt lờ” hàng loạt

D: Chị thắc mắc rằng làm thế nào bọn chúng tìm ra nơi em ở chứ?

B: Chúng luôn luôn biết. Em không rõ là điều chúng làm với ta hay đó là với tâm trí của chúng. Nếu với tâm trí của chúng, chúng thăm dò xem thử ta đang ở đâu, và sẽ xuất hiện ở đó. Ý em là, chuyện đó có thể xảy ra. Em không chắc chắn điều gì cả. Ngoại trừ bọn chúng dường như biết tất cả mọi thứ. Chà, em nói như vậy, nhưng rõ ràng là chúng không biết tất cả. Chúng sẽ không điều tra nếu chúng đã biết tất cả mọi thứ rồi. Nhưng chúng hiểu biết nhiều hơn em, đó là lý do em nghĩ rằng chúng biết hết mọi thứ trên đời.

 

Tôi đang chuẩn bị chuyển em ấy sang phân cảnh khác thì em ấy đột ngột cắt ngang. “Có thể em có gì đó, hay ai đó khác khiến bọn chúng quan tâm và tiến hành những cuộc điều tra đó. Và chúng thực hiện với những người khác nữa.”

D: Em nghĩ vậy à?

B: Ồ, vâng. Em đã nhìn thấy bọn chúng cùng với những người khác trên một con tàu vũ trụ giống như chúng đã bắt em. Em không biết tất cả những gì đang xảy ra. Nhưng em biết có những người khác trên đó.

D: Chuyện này xảy ra khi nào vậy?

B: Nó đã xảy ra nhiều hơn một lần. Em chỉ biết bọn chúng cũng làm chuyện đó với những người khác. Em đã nói về cách họ tìm thấy ta rồi đó. Chị có bao giờ thấy những tấm bản đồ thế giới cực lớn được dán trên tường chưa? Và chúng đặt tất cả những chấm đỏ này ở những vị trí nhất định, hoặc chấm tím hay bất cứ màu gì khác? Em nghĩ rằng có điều gì đó về tụi em khiến tiếng bíp phát ra hoặc đèn nhấp nháy báo cho bọn chúng biết những người là đối tượng kiểm tra của chúng. Hiện tại em không biết đó là chuyện gì, hay là vì một khi chúng đã kiểm tra ta, ta trở nên như vậy. Ta gửi đi một số loại tín hiệu ánh sáng hoặc tín hiệu thính giác. Khi một thứ giống như máy tính scan quét được tín hiệu, nó sẽ tìm thấy ta. Giống như một tên lửa chiến tranh sẽ tìm thấy mục tiêu. Ý em là, có một số loại radar. Những cái thiết bị giúp ta có thể tìm thấy mọi thứ. Ngay cả chính chúng ta cũng có thể làm được điều đó. Và vì vậy, có mộ số thứ giúp chúng theo dõi bất kỳ ai mà chúng muốn. Có lẽ ta được gắn thẻ theo một cách nào đó, giống như chúng ta gắn thẻ chim bồ câu, em đoán vậy.

D: Được rồi. Chúng ta có thể tìm hiểu xem đó là gì. Chị muốn nói chuyện với tiềm thức của em. Beverly có được gắn thẻ vào cơ thể không? Có phải có điều gì đó đã được thực hiện để họ có thể tìm thấy em ấy một lần nữa không?

B: Có. Em nghĩ nó ở trong mũi em ấy. Em nghĩ nó ở giữa ngay ở đây này. (Em ấy chỉ vào vùng sống mũi của em ấy). Của khuôn mặt và cái mũi.

D: Vùng sống mũi à? (uh-huh) Có gì ở đó vậy?

B: Em không biết rằng đó có phải là một thứ tròn giống như con ong hay đó là một hình vuông nhỏ, gần giống như một mẩu giấy. Nhưng nó không phải là giấy. Nó sẽ phải có nhiều vật chất hơn thế. Nó được đặt bên trong bằng một cách nào đó.

D: Mục đích của nó là gì?

B: Nó phát ra một số loại tín hiệu.

D: Nó có làm phiền em ấy không?

B: Có, nó gây ra một số vấn đề như đau đầu, viêm xoang.

Em nghĩ rằng nếu có bất cứ thứ gì lạ trong đầu, hoặc ở trong bộ phận khác của cơ thể, sẽ có một vấn đề nhỏ. Và chuyện này xa lạ đối với chúng ta. Nó không cố ý gây ra bất kỳ thương tổn nào nhưng em nghĩ là nó có gây ra. Giống như khi ta đeo kính áp tròng hoặc thứ gì đó tương tự vậy.

D: Ý em là nó sẽ không cố ý gây ra bất kỳ vấn đề nào ư. Nhưng vì nó là vật lạ xâm nhập vào cơ thể, nó có thể gây ra một số vấn đề nhỏ như một tác dụng phụ.

B: Vâng. Và sau đó phụ thuộc vào sức khỏe của ta mà nó sẽ có những tác động tương ứng khiến ta có thấy phiền hay không.

D: Nó được đặt ở đó khi nào?

B: Em đã suy nghĩ rất rất nhiều năm trước đây từ khi em còn nhỏ. Còn rất nhỏ, thậm chí có thể chưa ra khỏi nôi.

D: Vậy là nó đã luôn ở đó từ lâu rồi. Nhưng tiềm thức có thể giúp giảm bớt những rắc rối do một vật thể lạ gây ra? (Uh-huh) Bởi vì chúng ta không thể làm gì được. Nếu nó ở trong đó, nó phải kẹt lại ở đó.

B: Em nghĩ rằng có những những sự thích nghi có thể được thực hiện để giúp chống lại những hậu quả tạo ra bởi điều đó.

D: Đây có phải là vật thể lạ duy nhất mà em ấy có trong người không?

B: Em không chắc. Có thể có một cái gì đó trong não nữa. Và nó là một thiết bị giám sát. Em nghĩ nó ở phía bên phải. (Em ấy đặt tay lên vùng não phải). Có thể hướng ra phía sau.

D: Đó là loại thiết bị nào?

B: Em nghĩ nó giám sát hoạt động của sóng não.

D: Nó trông như thế nào?

B: Em không biết vi mạch trông như thế nào, nhưng có cảm giác rằng nó phải giống một vi mạch được sử dụng trong máy tính. Một cái gì đó rất nhỏ. Có thể không quá mỏng như một tờ giấy, có thể nó dày hơn một chút, nhưng rất nhỏ.

D: Cái đó có gây ra vấn đề gì không?

B: Không đáng chú ý như vậy. Em nghĩ sự nhận thức được rằng tất cả những thứ này tồn tại gây ra nhiều vấn đề hơn là bản thân các vật thể đó.

D: Vậy em có nghĩ sẽ tốt hơn nếu em ấy không biết về nó?

B: Không đâu, khi em nói “nhận thức”, em không hàm ý là nhận thức có ý thức. Có một nhận thức mà em ấy biết về nó, theo giai đoạn và luôn luôn có. Và điều đó đã thúc đẩy cảm xúc lo lắng đủ để trở thành một vấn đề đối với em ấy.

D: Chị hiểu rồi. Chúng ta không muốn khiến em ấy cảm thấy khó chịu. Điều quan trọng là để em ấy được khỏe mạnh và hạnh phúc.

B: Chà, em không nghĩ là chị có thể bỏ qua nó.

Sau đó tôi đưa Beverly trở lại trạng thái thức tỉnh hoàn toàn và hướng cô ấy trở lại hiện tại. Tôi đã gợi ý cho cô ấy để giúp cô ngừng hút thuốc, như cô ấy đã yêu cầu trước khi chúng tôi bắt đầu phiên thôi miên. Ký ức duy nhất mà cô ấy có được khi tỉnh dậy đã liên quan đến một số gợi ý này, và những nhận xét trong tiềm thức của cô ấy về sự khó khăn trong việc ngăn chặn thói quen này. Cô ấy không nhớ bất cứ điều gì đã được nhắc đến về các đồ vật trong đầu mình. Tôi nghĩ tốt nhất là không nên nói với cô ấy về chúng vào thời điểm hiện tại. Tôi biết khi cô ấy nghe đoạn băng ghi âm, cô ấy sẽ biết về chúng. Có lẽ lúc đó cô ấy sẽ chấp nhận được. Tôi không muốn làm cô ấy nản lòng hay sợ hãi.

Tôi không còn có buổi thôi miên nào khác với Beverly nữa. Cô quyết định không muốn khám phá thêm về chủ đề vật thể bay không xác định – UFO. Rõ ràng tiềm thức của cô nghĩ rằng cô đã khám phá đủ, và không muốn làm phức tạp thêm cuộc sống của mình. Có lẽ vì lý do tương tự mà cô ấy đã cất băng ghi âm đi và không bao giờ nghe chúng. Thật ngạc nhiên, nhiều đối tượng của tôi không bao giờ có thể tự mình lắng nghe lại phiên thôi miên. Khi nó kết thúc, họ cho nó vào quên lãng. Có lẽ như vậy tốt hơn.

Chúng tôi chưa bao giờ tìm ra nguyên nhân khiến cô ấy ốm yếu một cách kỳ lạ. Có thể đây là một trong những lý do người ngoài hành tinh muốn khám phá. Họ cũng có thể đang cố gắng hiểu điều đó. Cô tiếp tục cuộc sống của mình với nghề sơn bảng hiệu và nghệ sĩ bán thời gian, vì vậy những phiên thôi miên kỳ lạ này dường như không có ảnh hưởng xấu.

Trong nhiều năm, đặc biệt là sau khi tôi tham gia vào nghiên cứu UFO, tôi đã ghi chép lại về những sự cố bất thường đã xảy ra trong cuộc sống của tôi. Tôi không thể biết chúng có huyền bí hay không, nhưng nếu chúng đủ bất thường để thu hút sự chú ý của tôi, tôi sẽ viết về chúng. Tôi không thể nào biết chúng có được sử dụng trong tương lai hay không. Tôi làm điều tương tự khi tôi đang có một trường hợp thôi miên. Tôi lưu giữ những ghi chú phong phú để sự kiện trở nên sống động trở lại khi tôi muốn đưa nó vào một cuốn sách. Những chi tiết trong cuốn sách này được lấy ra từ đó.

Trong khi biên soạn các trường hợp cần tập trung vào cuốn sách này, tôi đã xem qua ghi chép của mình và phát hiện ra một điều gì đó đã xảy ra với tôi khiến tôi nhớ đến việc Beverly tỉnh dậy và nhìn thấy ánh sáng kỳ lạ ở sân sau của cô ấy. Tôi đã nghĩ phản ứng của Beverly là kỳ lạ vì cô ấy không đứng dậy và tìm hiểu xem chuyện gì xảy ra. Trong trường hợp của mình, tôi cũng đã thể hiện sự thờ ơ như vậy và chấp nhận điều bất thường như là chuyện bình thường khi nó đang xảy ra.

Phần lớn những vụ này xảy ra vào cuối những năm 1980, đặc biệt là trường hợp liên quan đến Beverly. Các ghi chép của tôi ghi nhận hiện tượng tương tự của tôi xảy ra vào tháng 12 năm 1988 trong giai đoạn cao điểm của các cuộc điều tra của người ngoài hành tinh này. Vào thời điểm đó tôi đã không thực hiện bất kỳ kết nối nào.      

Ghi chép của tôi:

Ngày 18 tháng 12 năm 1988. Khoảng 3 giờ đêm tôi thức dậy đi vệ sinh. Khi tôi đi từ phòng ngủ của mình xuống hành lang ngắn dẫn đến phòng tắm, tôi thấy một ánh sáng rực rỡ đang chiếu qua cửa sổ lớn làm bằng kính ở phòng khách. Nó chiếu sáng hầu hết các đồ vật trong phòng và chiếu lên bức tường ngoài hành lang. Tôi tự nhủ rằng hẳn đó là do trăng tròn chiếu sáng, bởi vì trăng có thể chiếu sáng với mức độ ánh sáng như vậy. Mặc dù tôi đã không để ý trong phòng của tôi, nhưng những tấm rèm được kéo xuống trong đó để ngăn ánh sáng. Khi ở trong phòng tắm, tôi đang quay mặt về phía bức tường của hành lang, nơi tôi có thể nhìn thấy qua cửa phòng tắm. Ánh sáng từ căn phòng phía trước chiếu vào một phần của bức tường. Tôi thậm chí còn không nghĩ về bất cứ điều gì, khi ánh sáng biến mất, và mọi thứ chìm vào bóng tối sâu thẳm. Không hẳn là ánh sáng đột ngột vụt tắt.             

Nó diễn ra một cách từ từ hơn thế, mặc dù vẫn rất nhanh. Có vẻ như bóng tối di chuyển từ phải sang trái nhanh chóng xóa sổ ánh sáng. Chỉ còn một tia sáng chớp nhoáng nữa, và toàn bộ ngôi nhà tối sầm lại, tôi lập tức nghĩ rằng những đám mây hẳn đã trôi qua mặt trăng và che khuất nó, dù những đám mây này phải di chuyển thật là nhanh. Điều đó có thể xảy ra nếu có gió lớn. Khi tôi rời khỏi phòng tắm và trở lại phòng ngủ của mình, tôi kéo tấm rèm sang một bên và nhìn ra ngoài. Không có trăng, không có mây và không có gió. Đó là một đêm yên tĩnh, trong sáng đầy sao. Tôi tự hỏi liệu mình có vào phòng khách trước thay vì phòng tắm không, liệu mình có nhìn thấy gì bên ngoài khung cửa sổ lớn không. Tôi thường làm vậy, đi đến cửa sổ và nhìn vào mặt trăng hoặc các vì sao. Nhưng sự thôi thúc muốn đi vệ sinh khiến tôi không thể làm gì khác. Cách ánh sáng biến mất gợi ý sự chuyển động, như thể nó đã di chuyển từ trái sang phải qua cửa sổ. Điều này sẽ giải thích sự chuyển động trong hành lang của bóng tối đến từ hướng khác.

Ngôi nhà của tôi được xây dựng theo một cách khác thường. Nó có hai tầng và một phòng khách, phòng ngủ và gian bếp ở tầng trên. Phòng khách có một cửa sổ lớn bằng kính hướng ra những ngọn đồi trập trùng thoai thoải dân cư. Tôi đã xem xét khả năng ô tô chạy trên đường trước nhà mình, nhưng tôi đã loại bỏ giả định này. Con đường cách đó vài trăm bộ Anh và ngôi nhà được che chắn bởi một hàng cây san sát nhau. Tôi đã nhiều lần quan sát những chiếc xe ô tô đi lên và đi xuống con đường đó, và sự phản chiếu của ánh đèn trên tường của họ luôn rời rạc và nhấp nháy, nguyên nhân là do chiếu xuyên qua cây cối. Đường nét của những cái cây luôn hiển thị trên tường khi chúng đi ngang qua. Ngay cả khi một chiếc xe hơi chạy vào và đậu trước nhà tôi, ánh đèn chiếu vào cũng khác. Tôi đã quan sát điều này nhiều lần. Đây không phải là một chiếc xe hơi, trên đường lớn hay con đường dẫn vào nhà. Nó phải là một ánh sáng rất sáng chiếu vào từ một góc cao hơn để chiếu sáng toàn bộ căn phòng và hành lang.

Gần một tuần sau, khi mặt trăng thực sự tròn, tôi quan sát xem liệu nó có tạo ra hiệu ứng tương tự vào ban đêm hay không. Tôi thấy rằng vào thời điểm này trong năm (mùa đông) mặt trăng di chuyển trực diện phía trên mái nhà, thay vì phía trước cửa sổ như vào mùa hè. Như vậy, ánh trăng chiếu vào cửa sổ ở một góc độ khác. Nó không tạo ra hiệu ứng mà tôi đã thấy. Tôi vẫn tự hỏi liệu tôi có nhìn thấy gì không nếu tôi có thể chạy đến cửa sổ sớm hơn. 

Tôi không nói ánh sáng tôi nhìn thấy là UFO, nhưng điều đó cho thấy không phải lúc nào chúng ta cũng cư xử hợp lý khi bị đánh thức trong đêm bởi ánh sáng hoặc âm thanh lạ.

***
Sách: Những người giám hộ
Tác giả: Dolores Cannon
Chương 6: Thư viện

ĐỂ LẠI NHẬN XÉT

Please enter your comment!
Please enter your name here