Tiết Một
Các nhận xét dẫn nhập
Giai đoạn chuyển tiếp
(THE PERIOD OF TRANSITION)
Tháng 3 – 1934
Một trong các kết quả của tình hình trên thế giới ngày nay là gia tốc mọi sự sống nguyên tử ở trên và bên trong hành tinh. Tất nhiên điều này bao hàm hoạt động rung động ngày càng tăng của cơ thể con người, với hậu quả tất nhiên trên bản chất tâm thông là tạo ra nhạy bén khác thường và ý thức tâm linh. Nhân đây, cũng là việc hữu ích mà nhớ lại rằng tình trạng con người hiện nay không phải là kết quả của chỉ một yếu tố duy nhất, mà là của nhiều yếu tố – tất cả các yếu tố đó đều linh hoạt cùng một lúc, bởi vì giai đoạn này đánh dấu việc kết thúc một kỷ nguyên và khai mở kỷ nguyên mới.
Trước tiên, các yếu tố mà tôi đề cập đến, gồm có ba loại:
- Đây là giai đoạn chuyển tiếp giữa việc kết thúc Kỷ Nguyên Song Ngư (nhấn mạnh vào uy quyền và niềm tin) với việc ra đời của Kỷ Nguyên Bảo Bình (nhấn mạnh vào sự cảm thông cá nhân và hiểu biết trực tiếp). Hoạt động của các lực này, tiêu biểu cho hai cung hoàng đạo, tạo ra trong các nguyên tử của cơ thể con người một hoạt động tương ứng.
Chúng ta sắp có các kiến thức mới mẻ với các nguyên tử của xác thân được điều chỉnh để tiếp nhận. Các nguyên tử vốn có ưu thế của cung Song Ngư này, đang bắt đầu giảm bớt hoạt động và được “triệt thoái về mặt huyền linh” (“occultly withdrawn”), như thường gọi, hay trừu xuất, trong khi những người đáp ứng với các khuynh hướng của Kỷ Nguyên Mới, đến phiên họ, được kích động và hoạt động rung động của họ được tăng lên.
- Cuộc thế chiến đã đánh dấu một cao điểm (climax) trong lịch sử nhân loại, và hậu quả chủ quan của nó lại mạnh mẽ hơn là theo người ta hiểu từ trước đến giờ. Qua sức mạnh của dư âm kéo dài diễn ra như một kinh nghiệm lớn lao ở các chiến trường trên khắp thế giới trong khoảng bốn năm (1914– 1918) và qua sự căng thẳng tình cảm dữ dội của toàn thể nhân loại trên hành tinh, mạng lưới bằng chất dĩ thái (được gọi là “tấm màn che thánh điện”) đang ngăn cách cõi trần với cõi cảm dục, bị xé rách hay tơi tả ra và tiến trình gây sửng sốt để kết hợp hai thế giới của cách sinh hoạt ở cõi trần và của kinh nghiệm cõi cảm dục đã bắt đầu và hiện đang từ từ tiến triển. Do đó, hiển nhiên là điều này phải mang lại các thay đổi rộng lớn và các biến đổi to tát trong ý thức con người. Trong khi điều đó sẽ báo trước kỷ nguyên của hiểu biết, của tình huynh đệ và của sự giác ngộ, nó cũng sẽ mang lại các tình trạng phản ứng và thả lỏng các sức mạnh tâm thông mà ngày nay đang đe doạ kẻ thiếu kiềm chế và thiếu hiểu biết, đồng thời biện minh cho việc gióng lên một âm thanh báo động và đề phòng.
- Nhân tố thứ ba như sau. Trong một thời gian dài, nhân tố này được các nhà thần bí thuộc mọi tôn giáo trên thế gian và các đạo sinh huyền bí học ở khắp nơi nhận biết, đó là một vài thành viên của Thánh Đoàn Hành Tinh đang tiến tới gần hơn cõi trần vào lúc này. Với câu này tôi muốn bạn suy đoán rằng tư tưởng hay sự chú tâm bằng thể trí (mental attention) của Đức Christ và của một vài đệ tử cao cấp của Ngài, tức các Chân Sư Minh Triết, vào lúc này được hướng đến hay được tập trung vào các sự việc của nhân loại, và một số trong các Ngài cũng đang chuẩn bị để phá vỡ sự im lặng lâu nay của các Ngài và có thể sau này xuất hiện trong nhân loại. Tất nhiên điều này có một hiệu quả mạnh mẽ, trước tiên là nơi các đệ tử của các Ngài và nơi những người đã được chỉnh hợp và làm cho đồng bộ với Thể Trí của các Ngài, và hai là, nên nhớ rằng năng lượng đang tuôn đổ qua các điểm hội tụ của Thiên Ý này sẽ có một hiệu quả song hành: có tính huỷ diệt cũng như kiến tạo, tuỳ theo tính chất của các thể đang phản ứng vào nó. Các mẫu người khác nhau đáp ứng một cách khác nhau với bất cứ luồng năng lượng nào đang chảy vào, và một sự kích thích tâm linh mạnh mẽ đang xảy ra vào lúc này, với các kết quả, có lợi về mặt thiêng liêng lẫn bất lợi về mặt huỷ diệt. Cũng có thể nói thêm rằng một vài mối liên hệ về mặt thiên tượng giữa các chòm sao đang phóng rải các loại mãnh lực mới, hiện tác động qua thái dương hệ chúng ta và lên trên hành tinh chúng ta nhờ thế có thể tạo ra các khai mở mà từ trước đến giờ không thể biểu hiện ra được và đang mang lại bằng chứng về các sức mạnh tiềm tàng và biểu hiện của các kiến thức mới mẻ. Tất cả mọi điều này phải được những người hoạt động trong lãnh vực nhân sự (human affairs) ghi nhớ cẩn thận, nếu cuộc khủng hoảng hiện nay được đánh giá đúng và các cơ may tuyệt vời của nó được vận dụng đúng lúc. Theo tôi, thật là điều hay khi đưa ra một số sự việc liên quan đến tình hình trên thế giới hiện nay, nhất là liên quan đến các nhóm huyền bí, huyền linh và thần bí (esoteric, occult and mystical groups) và phong trào tâm linh.
Hiện nay, mọi tư tưởng gia và các nhà hoạt động trong lãnh vực tâm linh chân chính đều quan tâm đến sự gia tăng tội ác về mọi mặt, bởi việc phô bày (display) các khả năng tâm thông hạ đẳng, bởi việc hư hỏng rõ rệt của thể xác, như đã thấy trong việc lan tràn bệnh hoạn, và bởi sự tăng lên dữ dội về bệnh tâm thần (insanity), các bệnh loạn thần kinh (neurotic conditions) và quẩn trí (mental unbalance). Tất cả đều do kết quả của việc thủng mạng lưới bảo vệ hành tinh (the tearing of the planetary web), đồng thời đó là một phần của cơ tiến hoá (evolutionary plan) và đưa tới cơ hội để nhờ đó nhân loại có thể đi đến giai đoạn tiến hoá kế tiếp. Thánh Đoàn các Chân Sư (Hierarchy of Adepts) đã có các ý kiến phân hoá (nếu một từ ngữ không thích hợp như thế có thể được dùng cho một nhóm các linh hồn và các huynh đệ không hề biết đến ý thức chia rẽ, mà chỉ khác nhau về vấn đề “khéo léo trong hành động” (“skill in action”), về tình hình thế giới hiện nay. Một vài vị cho rằng việc đó còn sớm và tất nhiên là không thích hợp và đưa tới một tình thế khó khăn, trong khi các vị khác đưa ra quan điểm của các Ngài dựa vào bản chất tốt lành (soundness) của nhân loại và xem cuộc khủng hoảng hiện nay như là tất nhiên và xảy ra bởi sự phát triển trong chính con người; các Ngài nhìn thấy tình trạng như là có tính giáo dục và chỉ tạo ra khó khăn tạm thời mà – khi điều đó được giải quyết – sẽ đưa nhân loại tiến trên con đường có một tương lai còn huy hoàng hơn nhiều. Nhưng đồng thời cũng công nhận sự thật rằng các mãnh lực lớn lao và thường gây tàn phá đã không còn được kiềm chế trên cõi trần nữa và hậu quả là gây nên sự chết chóc có liên quan đến tất cả các Chân Sư, đệ tử của các Ngài và những người hành đạo (workers).
Nói chung, nỗi khó khăn có thể được truy nguyên ra là do quá bị kích thích và sự căng thẳng quá mức nơi các bộ phận của xác thân, mà giới linh hồn (đang nhập thế) phải sử dụng khi linh hồn tìm cách biểu lộ trên cõi trần và nhờ đó đáp ứng với môi trường chung quanh. Dòng năng lượng tuôn đổ từ cõi cảm dục và (với một mức độ ít hơn) từ cõi hạ trí, lập được mối liên lạc với các thể mà đầu tiên không đáp ứng, và sau đó lại đáp ứng quá mức; nó tuôn đổ vào các tế bào não bộ, mà do thiếu sử dụng, nên không quen với nhịp điệu mạnh mẽ được áp đặt lên chúng; còn dụng cụ hiểu biết của con người thì kém cỏi đến đỗi đa số con người không có đủ nhận thức để tiến hành một cách thận trọng và tiến tới một cách từ từ. Do đó, chẳng bao lâu nữa họ sẽ gặp nguy hiểm và khó khăn; bản chất của họ thường kém tinh khiết hay là đầy ích kỷ đến nỗi các khả năng mới – vốn đang bắt đầu hiện ra, và như thế mở ra các con đường hiểu biết và giao tiếp mới – lại lệ thuộc vào các mục đích hoàn toàn ích kỷ và bán rẻ cho các mục đích trần tục. Những linh thị thoáng hiện được ban cho con người về những gì ẩn sau bức màn che giấu bị giải thích sai, còn thông tin thu lượm được bị lạm dụng và bị làm lệch lạc bởi các động lực sai lầm. Nhưng dù cho một người vô tình là nạn nhân của mãnh lực hay là tự mình tiếp xúc với mãnh lực đó một cách cố ý, y cũng phải trả giá cho sự thiếu hiểu biết hay sự liều lĩnh của mình trong xác thân, cho dù linh hồn của y có thể “tiến tới được”.
Hiện nay, không có ích gì mà nhắm mắt trước vấn đề kề cận hay cố đổ lỗi cho các thất bại đáng buồn, các suy sụp huyền linh, cho các nhà tâm thông nửa tỉnh nửa mê, những nhà thần bí bị ảo giác và những kẻ thiểu trí không chuyên về huyền bí học, do thiếu sáng suốt, hay là đổ thừa cho một số đạo sư, các nhóm hay các tổ chức. Nhiều sự phiền trách có thể thực sự được nhận ra khắp mọi nơi, nhưng cần nên sáng suốt đối phó với các sự kiện và hiểu được nguyên nhân của những gì đang tiết lộ ở mọi nơi vốn có thể được nói như sau:
Nguyên nhân sự phát triển của tâm thông bậc thấp và của sự nhạy cảm ngày càng tăng của nhân loại vào lúc này là dòng chảy vào không đoán trước được của một hình thức năng lượng cảm dục mới mẻ xuyên qua bức màn bị xé rách, mà cách đây một thời gian ngắn đã bảo vệ an toàn cho nhiều người. Thêm vào đó, một số lớn các hiện thể của con người thiếu đáp ứng với sự căng thẳng mới được đặt ra và một số ý tưởng của vấn đề có thể được hiểu rõ.
Tuy nhiên đừng quên rằng có một khía cạnh khác cần minh hoạ. Dòng năng lượng lưu nhập này đã đưa hàng trăm người vào một nhận thức tâm linh mới mẻ và sâu xa hơn; nó đã mở ra một cánh cửa mà nhiều người không bao lâu nữa sẽ đi qua và được điểm đạo lần hai và nó để cho một dòng ánh sáng tuôn vào thế gian – một ánh sáng sẽ tiếp tục ngày càng tăng trong vòng ba mươi năm tới (1), mang lại đảm bảo cho tính bất tử và một thiên khải mới về các tiềm lực thiêng liêng trong con người. Kỷ Nguyên Mới đang ló dạng như thế đó. Cơ hội đưa đến các mức độ hứng cảm mà từ trước đến giờ chưa được tiếp cận, đã trở nên dễ dàng. Việc kích thích các quan năng cao siêu (và ở một mức độ rộng lớn) hiện giờ có thể xảy ra, việc phối kết của phàm ngã với linh hồn và việc sử dụng đúng năng lượng có thể diễn tiến với sự hiểu biết và hoạch định mới mẻ hơn. Bao giờ nhân loại cũng phải kiên trì và luôn luôn có nhiều người được kêu gọi, còn ít người được tuyển chọn. Đây là định luật huyền linh.
1 Quyển S H L C T Đ được xuất bản lần đầu vào năm 1957 (ND).
Hiện nay chúng ta đang ở trong giai đoạn có tiềm lực tâm linh mạnh mẽ và có cơ may cho tất cả những ai ở trên con đường dự bị và con đường đệ tử. Đó là thời điểm mà tiếng gọi hào hùng được đưa ra cho con người với sự cổ vũ nhiệt liệt và với thiện chí, vì sự giải thoát sắp xảy ra. Nhưng đó cũng là thời điểm nguy hiểm và đầy thảm hoạ cho kẻ bất cẩn và kẻ chưa sẵn sàng, cho kẻ nhiều tham vọng, kẻ vô minh và cho những ai đi tìm Thánh Đạo với lòng ích kỷ và không muốn bước lên con đường phụng sự với động lực trong sạch. E rằng sự đảo lộn rộng lớn này và tai hoạ phải đến với rất nhiều người dường như bất công đối với bạn, tôi xin nhắc các bạn rằng cuộc sống duy nhất này chỉ là một thời gian ngắn ngủi trong cuộc sống rộng lớn và to tát hơn của linh hồn và rằng những ai thất bại và bị gián đoạn bởi ảnh hưởng của các mãnh lực mạnh mẽ hiện giờ đang tràn ngập địa cầu, tuy vậy, mức độ rung động của họ sẽ được “cải tiến” (“stepped up”) ngõ hầu sửa đổi được nhiều điều theo kịp với số đông người thành đạt, cho dù trong tiến trình đó, thể xác của họ có thể bị huỷ diệt đi chăng nữa. Việc huỷ diệt thể xác không phải là tai hoạ tệ hại nhất mà con người có thể phải chịu.
Mục đích của tôi không phải là đề cập đến toàn thể lãnh vực có thể có liên quan đến tình trạng trong lãnh vực tâm thông do dòng lưu nhập (inflow) của năng lượng cảm dục tạo ra vào lúc này. Tôi tìm cách tự giới hạn vào hiệu quả của dòng lưu nhập này trên những người tìm đạo và những người nhạy cảm. Hai từ ngữ này – người tìm đạo và người
nhạy cảm – được tôi dùng trong mục này để phân biệt hạng người tìm kiếm đã giác ngộ bất chấp sự kiềm hãm và khống chế của hạng người tâm thông bậc thấp, những người mà từ lâu đã kiềm hãm và khống chế. Ở đây cần nhắc nhở bạn rằng năng lực tâm thông, như thường gọi, có thể được chia thành hai nhóm như sau :
Tâm thông cao Tâm thông thấp
(Higher Psychism) (Lower Psychism) – Thiêng liêng (Divine) – Động vật (Animal)
– Kiểm soát được (Controlled)
– Không kiểm soát được (Uncontrolled)
– Tích cực (Positive) – Tiêu cực (Negative)
– Được sáng suốt áp dụng (Intelligently applied)
– Mang tính tự động (Automatic)
– Tính trung gian – Tính đồng cốt (Mediatorship) (Mediumship)
Ít người hiểu được các dị biệt này, cũng như không lượng định được rằng cả hai nhóm tính chất đều cho thấy thiên tính của chúng ta. Tất cả đều là các biểu hiện của Thượng Đế. Có một số năng lực tâm thông mà con người chia sẻ chung với con vật; các năng lực này có sẵn trong cơ thể động vật và có tính chất bản năng, nhưng đối với một số lớn loài vật, chúng lại rơi xuống dưới ngưỡng ý thức và không được hiểu rõ, do đó trở thành vô dụng. Thí dụ, đó là các năng lực như nhãn thông và nhĩ thông thuộc cõi cảm dục (astral clairvoyance and clairaudience) và nhìn thấy được các màu sắc và các hiện tượng tương tự. Nhãn thông và nhĩ thông cũng có thể có trên cõi trí và bấy giờ chúng ta có thể gọi đó là viễn cảm (telepathy) và thấy được các biểu tượng, vì mọi tưởng tượng về các hình của hình học đều là nhãn thông cõi trí. Tuy nhiên, tất cả các khả năng này đều được ràng buộc với cơ thể con người hay là bộ máy đáp ứng, và dùng để cho con người tiếp xúc với các trạng thái của cõi hiện tượng, nhờ có bộ phận máy đáp ứng (response mechanism) này (mà chúng ta gọi là phàm ngã) con người mới tồn tại được. Chúng là sản phẩm của sự hoạt động của hồn thiêng (divine soul)(1) trong con người, đang khoác hình thức của cái mà chúng ta gọi là “sinh hồn”(2) (“animal soul”), vốn thực sự đáp ứng với ngôi Thánh Thần (Holy Ghost aspect) trong Tam Thượng Thể của tiểu vũ trụ con người. Tất cả các quyền năng này đều có các tương ứng tâm linh cao của chúng, các tương ứng này chỉ hiện ra khi linh hồn trở nên linh hoạt một cách có ý thức và kiểm soát được bộ máy của mình qua thể trí và bộ não. Khi nhãn thông và nhĩ thông cõi cảm dục không còn ở dưới ngưỡng của ý thức, mà được sử dụng và vận hành một cách linh hoạt, điều đó có nghĩa là bí huyệt nhật tùng (3) được khai mở và linh hoạt. Khi có năng lực trí tuệ tương ứng trong ý thức, thì bấy giờ điều đó hàm ý rằng bí huyệt cổ họng và bí huyệt giữa hai mày đều đang trở nên “thức tỉnh” và linh hoạt. Nhưng các năng lực tâm thông cao hơn, như là tri giác tinh thần (Spiritual perception) cùng với sự hiểu biết không thể sai lầm của nó, tức trực giác với phán đoán không còn
(1) và (2) Hồn thiêng là trạng thái cao nhất của con người, hồn này chỉ ở tại cõi riêng của nó, tức là cõi phụ thứ ba (hoặc ở cõi phụ thứ hai đối với đệ tử điểm đạo) của cõi trí, còn sinh hồn là trạng thái thấp nhất, đó là hạ trí (kama-manas – Lan) của con người (ND).
3 Solar plexus centre (bí huyệt đan điền – Lan) nằm dưới xương bả vai trong cột sống (Trích chữa Trị Nội Môn, trang 169)
lầm lạc của nó, và khoa trắc tâm (psychometry) thuộc loại cao siêu với năng lực khám phá quá khứ và tương lai của nó, đều là các đặc quyền của hồn thiêng. Các năng lực cao siêu này sẽ xuất hiện khi bí huyệt đầu, bí huyệt tim, cũng như bí huyệt cổ họng bắt đầu hoạt động do kết quả của việc tham thiền và phụng sự. Tuy nhiên, đạo sinh nên ghi nhớ hai điều:
Ấy là cái lớn luôn luôn bao gồm cái nhỏ, nhưng tâm thông thuần tuý động vật không bao hàm tâm thông cao.
Giữa trạng thái trung gian thụ động (negative medium– ship) loại thấp nhất với loại cao nhất của vị huấn sư và kẻ có nhãn thông (seen) được linh hứng có một cách biệt rất nhiều về mức độ và điều đó là do các bí huyệt phát triển không đồng đều trong nhân loại.
Sự phức tạp của vấn đề rất lớn, nhưng tình hình chung có thể hiểu được, ý nghĩa của cơ may được đưa ra có thể hiểu được, và việc sử dụng đúng kiến thức được dùng để đưa kẻ thánh thiện ra khỏi giai đoạn khẩn trương hiện nay, và như vậy sự tăng trưởng về tâm thông và tâm linh của con người được bảo dưỡng và duy trì.
Tôi tin vào lúc này có hai câu hỏi sẽ thu hút sự chú tâm của tất cả những kẻ phụng sự trong lãnh vực huyền bí học và những kẻ đang tham dự vào việc dạy dỗ các đạo sinh và những người tìm đạo.
- Chúng ta sẽ luyện tập những kẻ nhạy cảm và những người có tâm thông như thế nào để cho họ có thể tránh được những nguy hiểm và nhân loại có thể an toàn tiến tới cái di sản mới mẻ và huy hoàng của họ?
- Làm thế nào các trường phái nội môn hay là “các giới luật“ (disciplines) như đôi khi được gọi thế, vận dụng đúng cơ hội ?
Trước tiên, chúng ta hãy nói đến việc luyện tập và bảo vệ an toàn cho các nhà tâm thông và những người nhạy cảm.
- Việc huấn luyện các nhà tâm thông (The training of Psychics)
Điều trước tiên cần ghi nhớ là thuật đồng cốt và tâm thông thiếu sáng suốt và tiêu cực đều đưa kẻ thực hành hai thuật này đến trình độ của một người máy; đó là một điều nguy hiểm và không nên làm bởi vì nó tước đi mất tự do ý chí (free will) và tính linh hoạt (positivity) của con người và làm cho người này không còn hành xử như là một người hoàn toàn sáng suốt nữa. Trong các trường hợp này, con người không đóng vai trò như là vận hà cho linh hồn riêng của mình, mà chỉ thông minh hơn con vật có bản năng đôi chút thôi, nếu không muốn nói rằng, theo nghĩa đen, y chỉ là một cái vỏ trống rỗng mà một thực thể thích ám nhập có thể chiếm cứ và sử dụng. Khi nói như thế là tôi bàn đến loại đồng cốt thấp kém nhất mà hiện nay đang có quá nhiều, nó vốn là nguyên nhân có liên quan đến các trí óc nổi bật trong các phong trào cổ vũ cho đồng bóng. Một trạng thái đồng cốt (được nhập vào với một tư thế tập trung hoàn toàn có ý thức) mà trong đó, nhờ hiểu biết và sáng suốt, kẻ đóng vai đồng tử bỏ trống xác thân (body) mình cho một thực thể (mà y hoàn toàn biết rõ) nhập vào và thực thể này chiếm xác thể đó (với sự cho phép có ý thức của đồng tử) để sử dụng cho một mục đích tinh thần nào đó và giúp cho huynh đệ của y có thể trở thành tốt lành. Nhưng thường thường làm thế nào mà loại trạng thái đồng cốt này được nhận ra ? Một vài đồng tử biết được kỹ thuật chế ngự việc nhập vào hay xuất ra của một thực thể mượn xác, họ cũng không biết làm cách nào để tiến hành việc này theo cách thức sao cho trong một thời gian ngắn họ không bao giờ biết đến những gì mà chính họ đang làm và mục đích hành động của họ. Một cách rõ ràng và có chủ đích, họ tạm thời cho một linh hồn khác mượn xác thân của họ với mục đích phụng sự nhưng vẫn giữ sự toàn vẹn của riêng họ trong suốt thời gian đó. Biểu hiện cao nhất của loại hoạt động này là việc vị môn đồ Jesus dâng xác thể của Ngài cho Đức Christ sử dụng. Chính trong từ ngữ phụng sự (service) có ẩn toàn bộ câu chuyện và sự bảo vệ an toàn. Khi trạng thái mượn xác chân chính này (true mediumship) được hiểu rõ ràng hơn, chúng ta sẽ thấy người đồng tử thoát ra khỏi xác thân mình với ý thức tỉnh táo đầy đủ xuyên qua khe nhỏ ở đỉnh đầu của y, chớ không phải như đa số các trường hợp ngày nay là đi xuyên qua bí huyệt nhật tùng, mà không có việc duy trì sự hiểu biết, duy trì sự trao đổi, cũng như không có bất cứ sự nhớ lại nào về những gì đã xảy ra.
Bấy giờ, tạm thời chúng ta sẽ có một người chủ mới (new tenant) nhập vào theo đường lối rung động đồng bộ nhờ lối vào ở đầu, và sau đó dùng thể xác mượn được này làm vận cụ để dùng vào việc này hay việc khác. Nhưng đừng bao giờ dùng cách này làm thoả mãn tính tò mò do nhàn rỗi hay là một nỗi buồn phiền cũng do nhàn tản, do nỗi cô đơn và than thân trách phận của riêng mình. Hiện nay nhiều người thuộc hạng đồng tử bậc thấp bị những người hiếu kỳ hay kẻ thiếu hạnh phúc khai thác và những con người đặc biệt này có ý thức hoàn toàn tập trung dưới cách mô và bí huyệt nhật tùng của họ thực ra là não bộ của họ (vì đó là bộ óc của con vật) được thúc đẩy để hành động như là đồng tử để thoả mãn lòng ưa thích cảm giác hay ham muốn tiện nghi của các huynh đệ hầu hết cũng thiếu sáng suốt như họ.
Đồng thời, có các đồng tử ở thứ bậc cao hơn rất nhiều, kiếp sống của họ được cống hiến vào việc phụng sự cho những linh hồn tiến hoá trong cõi vô hình và những kẻ tự mình cống hiến để cho các huynh đệ của họ có thể học hỏi về họ; như vậy, theo cả hai khía cạnh của bức màn phân cách, các linh hồn đều được trợ giúp và có cơ hội hiểu biết hay phụng sự. Nhưng các linh hồn này cũng có lợi nhờ sự luyện tập sáng suốt hơn và nhờ sự hiểu biết chính xác hơn về kỹ thuật dành cho công việc của họ và cấu tạo của xác thân họ. Bấy giờ họ sẽ trở thành các vận hà hữu hiệu hơn và là kẻ trung gian đáng tin cậy hơn.
Trên hết, hãy để cho các nhà tâm thông trên thế giới ngày nay hiểu được sự cần thiết là phải kiềm chế chớ không phải bị kiềm chế; hãy để cho họ nhận thức được rằng tất cả những gì mà họ làm cũng đều có thể được làm bởi bất cứ đệ tử lão luyện nào của Minh Triết Vô Thuỷ, nếu có cơ hội và các trường hợp này biện minh cho việc tiêu phí thần lực như thế. Các nhà tâm thông bị lừa phỉnh dễ dàng. Thí dụ điều hiển nhiên là trên cõi cảm dục có một hình tư tưởng của chính tôi, huynh đệ Tây Tạng của bạn. Tất cả những ai đã nhận được các giáo huấn hằng tháng thuộc cấp đệ tử, những ai đã đọc được các sách mà tôi đã đưa ra trên thế giới với sự trợ giúp của A.A.B., cũng như tất cả những ai đang làm việc trong nhóm các đệ tử riêng của tôi, đều đương nhiên và tự động góp phần vào việc tạo ra hình tư tưởng cõi cảm dục này. Đó không phải là tôi, cũng không phải hình tư tưởng đó có liên kết với tôi, cũng không phải tôi sử dụng nó. Rõ ràng là tôi đã tách chính tôi ra khỏi hình tư tưởng đó và không dùng nó như là phương tiện để tiếp xúc với những kẻ mà tôi dạy dỗ, vì tôi chỉ chọn cách làm việc hoàn toàn trên các phân cảnh trí tuệ (mental levels), với cách ấy, chắc chắn là phạm vi tiếp xúc của tôi bị hạn chế, nhưng lại làm tăng thêm hiệu quả công việc của tôi. Không cần phải nói, hình tư tưởng ở cõi cảm dục này là một lệch lạc về tôi và công việc của tôi, đồng thời nó lại giống như một lớp vỏ (shell, ma hình) được phấn khích và làm cho linh hoạt.
Bởi vì trong hình tư tưởng này có nhiều chất tình cảm và cũng có một số chất trí (mental substance), nó có thể tạo ra một sức thu hút lớn lao và tính hữu hiệu của nó cũng giống như mọi ma hình khác (shells), thí dụ các ma hình được tiếp xúc trong buổi cầu đồng, nó giả dạng là chính tôi ở nơi nào trực giác chưa khơi hoạt được, lúc ảo tưởng hoàn toàn ngự trị. Do đó kẻ sùng tín có thể hoà nhập rất dễ dàng vào hình thức ảo tưởng này (illusory form) và hoàn toàn bị phỉnh gạt. Mức rung động của nó tương đối cao. Hiệu quả ở cõi trí của nó thì giống như một hình nhại khéo léo của chính tôi và dùng để đặt kẻ sùng tín bị lừa phỉnh tiếp xúc với cuộn phim cảm dục quang, vốn là hình ảnh ghi lại của tiên thiên ký ảnh (akashic records). Ký ảnh này là cuộn phim vĩnh cửu mà cơ tiến hoá của thế giới chúng ta được ghi vào đó mà nhiều vị trong chúng tôi (tức Chân Sư T.T.–ND) lúc giảng dạy, đã gom góp các dữ kiện và nhiều tài liệu của chúng tôi từ trong đó. Cảm dục quang làm lệch lạc và làm hạ giảm ký ảnh này. Bởi vì đây là một hình ảnh lệch lạc và đang tác động trong ba cõi sắc tướng và không có cội nguồn có giá trị nào cao hơn là cội nguồn ở cõi sắc tướng, nên nó chứa các mầm mống chia rẽ và tai hoạ trong đó. Các hình thức phỉnh lừa phát xuất từ đó, các ý kiến chia rẽ, tư tưởng nuôi dưỡng tham vọng và đưa tới việc ưa thích quyền hành, cùng là các mầm mống ham muốn và khao khát của cá nhân (đang phân chia các nhóm) xuất hiện được là do tiếp xúc với nó. Bởi đó, hậu quả cho những ai bị lừa phỉnh rất là buồn thảm.
Tôi cũng xin nêu ra rằng trạng thái xuất thần của đồng tử như thường gọi, tất nhiên phải được thay thế bằng trạng thái trung gian vốn xuất hiện nơi người nam hay nũ có nhãn thông hay nhĩ thông trên cõi cảm dục, và do đó, họ là người có ý thức khơi hoạt đầy đủ và với bộ óc vật chất nhanh nhẹn và linh hoạt có thể có được, giống như là kẻ trung gian giữa những người còn ở trong các thể thuộc cõi trần (và do đó không thấy và không nghe được trên các phân cảnh tinh anh hơn) với những người, nhờ đã tách khỏi các thể của họ, nên cắt đứt được mối liên giao với cõi trần. Loại tâm thông này có thể giao tiếp với cả hai nhóm và giá trị của họ cùng với sự hữu ích của họ với tư cách là đồng tử đều vượt ngoài sự tính toán khi họ chuyên tâm vào mục đích, không vị kỷ, trong sạch và hiến dâng cho việc phụng sự. Nhưng trong việc luyện tập mà họ tự trải qua, họ phải tránh các phương pháp tiêu cực hiện nay và thay vì “ngồi chờ phát triển” trong một chỗ trống và im lặng đợi, họ nên nỗ lực làm việc một cách tích cực với tư cách là linh hồn, vẫn duy trì sự sở hữu có ý thức và sáng suốt của bộ máy thấp so với các thể của họ; họ phải biết rõ trung tâm nào trong loại thân xác mà họ sử dụng trong khi hoạt động bằng tâm thông, và, với tư cách là linh hồn, họ phải học cách dò tìm trong cõi ảo tưởng mà họ đang hoạt động trong đó; từ vị trí cao siêu và trong sạch của họ, mong họ nhìn thấy rõ ràng, nghe hiểu đúng và tường thuật chinh xác, và như thế phụng sự cho kỷ nguyên và thế hệ của họ và biến cõi cảm dục thành một trường hoạt động quen thuộc và biết rõ, làm cho nhân loại quen với trạng thái hiện tồn, trong đó các huynh đệ của họ, đang học hỏi kinh nghiệm, đang sống và đang noi theo Thánh Đạo.
Ở đây tôi không thể viết ra những gì có liên quan đến kỹ thuật luyện tập đó. Vấn đề quá rộng lớn đối với một tác phẩm vắn tắt như thế này. Tôi xin nhấn mạnh rằng cần phải luyện tập một cách khôn ngoan và cẩn thận hơn và sử dụng một cách sáng suốt hơn sự hiểu biết hiện có, nếu gắng công tìm kiếm. Tôi kêu gọi tất cả những ai lưu tâm đến sự phát triển về hiểu biết tâm thông hãy nghiên cứu, suy tư, thực nghiệm, giảng dạy và học hỏi cho đến lúc mà toàn thể mức độ của hiện tượng tâm thông được đưa ra khỏi tình trạng vô minh, dựa trên suy đoán và tiêu cực hiện nay, lên tới mức có sự đảm bảo mạnh mẽ, kỹ thuật được chứng minh và biểu hiện tâm linh. Tôi kêu gọi các phong trào như là Hội Sưu Khảo Tâm Linh (Psychical Research Societies) trên thế giới và Phong Trào Tâm Linh (Spiritualistic Movement) rộng lớn hãy nhấn mạnh vào biểu hiện thiêng liêng chớ không nên nhấn mạnh nhiều về hiện tượng; mong sao họ tiến gần tới vấn đề theo quan điểm phụng sự và đưa các nghiên cứu của họ vào lãnh vực năng lượng và ngưng chạy theo thị hiếu tầm thường quá nhiều của quần chúng. Cơ may xảy đến cho họ rất lớn và công việc của họ rất là thiết yếu. Việc phụng sự được mang lại rất thực tiễn và thiết yếu, nhưng nếu muốn lợi dụng các phong trào này để hưởng được dòng lưu nhập sắp tới của năng lượng tinh thần thì họ phải chuyển sự chú tâm của họ vào lãnh vực các giá trị đích thực. Việc luyện tập trí tuệ và việc trình bày cho thế giới về một nhóm các nhà tâm thông sáng suốt phải là mục đích chính, bấy giờ, đối với họ, cõi cảm dục sẽ chỉ là một giai đoạn trên con đường tiến đến cõi giới mà tất cả các Đấng Hướng Dẫn Tinh Thần và các Chân Sư đều hiện hữu, và từ đó mọi linh hồn nhập thế và mọi linh hồn trở lại từ chỗ kinh nghiệm và thực nghiệm.
Có thể nêu câu hỏi là việc luyện tập này sẽ nhắm vào các nền tảng nào. Tôi xin nêu ra rằng giáo huấn này nên được đưa ra theo bản chất của con người và các mục tiêu cùng cứu cánh của linh hồn; việc luyện tập có thể được đưa ra cho hợp với phương pháp diễn đạt và cách dạy dỗ thận trọng cũng nên được đưa ra đối với cách sử dụng các bí huyệt trong thể dĩ thái và trong việc phát triển năng lực để giữ vững thái độ của kẻ bàng quan tích cực, kẻ luôn luôn là yếu tố kiềm chế, chi phối. Cần phải thận trọng phân tích chủng loại và đặc điểm của nhà tâm thông và bấy giờ áp dụng những phương pháp thích hợp khác nhau để cho người này có thể tiến tới với ít trở ngại nhất. Các trường phái và các lớp huấn luyện đang tìm cách khai hoá đạo sinh, phải được phân cấp tuỳ theo trình độ tiến hoá và mức độ đạo sinh hoà nhập vào nhóm với niềm hy vọng đầy lạc quan rằng những gì sắp xảy đến cho đạo sinh trong lúc ở trong nhóm đó sẽ phải ngưng lại.
Mục đích đối với nhà tâm thông thụ động hạng thấp sẽ là cách luyện tập thể trí và phong kín (closing) bí huyệt nhật tùng cho đến khi người này có thể hành động như người trung gian thực sự, nếu điều này bao hàm việc ngưng lại tạm thời các khả năng đồng bóng của y (và tất nhiên là việc khai thác với mục đích thương mại của y) bấy giờ sẽ có rất nhiều điều tốt lành cho y, xem y như là linh hồn bất tử, có vận mệnh thiêng liêng và hữu ích về mặt tinh thần.
Cách giáo huấn dành cho một đồng tử và nhà tâm thông sáng suốt sẽ đưa y đến việc hiểu biết đầy đủ về chính mình và về các năng lực của mình; điều đó sẽ khai mở được nhiều năng lực mà không có sự rủi ro nào, và với sự thận trọng, y sẽ được ổn định ở vị thế có yếu tố kiềm chế tích cực. Các khả năng nhãn thông và nhĩ thông của y sẽ dần dần trở nên hoàn thiện, và việc lý giải đúng những gì y thấy và tiếp xúc trên cõi huyễn tưởng, tức cõi cảm dục sẽ được vun bồi.
Như vậy chúng ta sẽ dần dần thấy xuất hiện trên thế giới một số lớn các nhà tâm thông lão luyện có khả năng hiểu biết và hành động trên cõi cảm dục với sự sáng suốt cũng nhiều y như họ hoạt động trên cõi trần, và những kẻ đang tự chuẩn bị để biểu lộ các khả năng tâm thông cao siêu hơn – nhận thức và viễn cảm tinh thần. Sau rốt, những người này sẽ tạo thành một nhóm các linh hồn liên kết, làm trung gian giữa những kẻ không thể thấy và nghe được trên cõi cảm dục bởi vì họ là các tù nhân của thể xác với những kẻ cũng là tù nhân của cõi cảm dục vì thiếu bộ máy đáp ứng với cõi trần.
Do đó, nhu cầu lớn lao không phải là chúng ta sẽ ngưng việc hỏi ý kiến và luyện tập các nhà tâm thông và các đồng tử, mà chúng ta sẽ huấn luyện họ một cách đúng đắn và bảo vệ họ một cách sáng suốt và, như thế, nhờ họ mà hai cõi trần và cảm dục được nối liền (1).
2. Trường Bí Giáo và các Giới luật
Câu hỏi thứ hai của chúng ta liên quan đến công việc của các trường bí giáo (esoteric schools) hay “các giới luật” (“disciplines”), như đôi khi người ta gọi, và việc luyện tập cùng việc bảo vệ an toàn cho người tìm đạo đang hoạt động trong các trường ấy.
1 Luận về Bảy Cung, QII (Tâm Lý Học Nội Môn) trang 555-598.
Trước tiên tôi xin làm sáng tỏ một điểm. Trở ngại lớn lao đối với công việc của đa số các trường bí giáo vào lúc này chính là ý thức chia rẽ của họ và sự cố chấp của các trường phái và các phương pháp khác. Các nhà lãnh đạo của các trường phái này cần chú tâm vào sự kiện sau đây. Mọi trường phái đều nhận được ảnh hưởng của Tổng Đàn Xuyên Hy Mã Lạp Sơn (trans–Himalayan Lodge) và một cách có chủ tâm hay vô tình, những người hành đạo đều được liên kết với các Chân Sư Minh Triết như là Chân Sư Morya hay Chân Sư K.H., tạo thành một trường phái duy nhất và gắn bó vào “giới luật” duy nhất (one “discipline”). Do đó, không có sự xung khắc thiết yếu nào về quyền lợi và ở khía cạnh nội môn – nếu họ đang hoạt động một cách hiệu quả bằng bất cứ cách nào – các trường phái và các cách trình bày khác nhau được xem như là hợp nhất. Không có sự khác nhau cơ bản về giáo huấn, cho dù thuật ngữ được dùng có thể thay đổi còn phương pháp làm việc về cơ bản thì giống nhau. Nếu công việc của các Đấng Cao Cả là tiến tới như sự mong đợi vào những ngày căng thẳng này và với nhu cầu thế giới, thì điều cấp bách là các nhóm khác nhau này nên bắt đầu nhận ra sự đồng nhất đích thực của họ về mục tiêu, cách hướng dẫn và phương pháp, và rằng các nhà lãnh đạo của họ nên hiểu rằng chính là do e ngại các nhà lãnh đạo khác và ước muốn rằng nhóm của họ sẽ chiếm số lượng quan trọng nhất trong việc sử dụng thường xuyên các từ ngữ “Đây là một giới luật khác hẳn” hoặc “Công việc của họ không giống như công việc của chúng tôi”. Chính thái độ này đang thực sự ngăn cản sự phát triển đời sống tâm linh và trình độ hiểu biết trong nhiều đạo sinh tập hợp thành nhiều tổ chức ngoại môn. Vào lúc này, “đại tà thuyết chia rẽ” đang lây nhiễm vào họ. Các nhà lãnh đạo và các thành viên diễn đạt bằng các thuật ngữ “của chúng tôi” và “của quý ông” (“our” and ”your”) về “giới luật” này và “giới luật” kia, và phương pháp này thì đúng (thường thường là phương pháp của riêng họ), còn phương pháp kia có thể là đúng, nhưng có phần đáng ngờ, nếu không phải là hoàn toàn sai. Mỗi người xem nhóm riêng của mình như là đặc biệt ràng buộc vào họ và vào cách giảng dạy của họ, và đe doạ các thành viên của họ là sẽ gặp các kết quả tệ hại nếu họ hợp tác với các thành viên của các nhóm khác. Thay vào đó, họ nên nhận thức rằng tất cả các đạo sinh trong các trường phái tương tự và đang làm việc dưới cùng các thúc đẩy tâm linh, đều là các thành viên của trường phái duy nhất và đều cùng liên kết trong sự hợp nhất chủ quan cơ bản. Đã đến lúc mà các đoàn thể nội môn khác nhau (và hiện nay) tách biệt nhau này sẽ phải minh chứng sự đồng nhất của họ, khi những người lãnh đạo, những người hành đạo và các vị thư ký sẽ gặp gỡ nhau và học cách hiểu biết và cảm thông lẫn nhau. Một ngày nào đó sự nhận thức và cảm thông này sẽ đưa họ tới điểm mà họ sẽ nỗ lực để bổ túc cho các cố gắng của nhau, trao đổi các ý tưởng với nhau và như thế thực sự tạo thành một đại học vĩ đại về huyền bí học trên thế giới, với các lớp và các đẳng cấp khác nhau nhưng tất cả đều bận tâm với việc rèn luyện cho những người tìm đạo và chuẩn bị cho họ bước lên đường đệ tử, hoặc là trông nom công việc của các đệ tử khi các vị này tự chuẩn bị để được điểm đạo. Lúc bấy giờ sẽ chấm dứt các cố gắng ngăn chận công việc của nhau như hiện nay bằng cách so sánh các phương pháp và các kỹ thuật, bằng sự chỉ trích, phỉ báng, bằng cách cảnh cáo và đề cao sự sợ hãi (cult of fear), và việc đòi hỏi đặc quyền. Vào lúc này, chính các thái độ và các phương pháp này đang ngăn chận việc đi vào của ánh sáng chân lý thuần tuý.
Những người có đạo tâm trong các trường phái này gặp phải một vấn đề khác với vấn đề về trạng thái tâm thông và trạng thái đồng cốt thông thường. Những người nam và nữ này đã tự cống hiến cho việc luyện trí và đã tự khép mình vào một tiến trình bắt buộc, vốn được dự kiến đưa đoá hoa toàn vẹn của linh hồn đến chỗ khai mở sớm hơn, có thể dùng được một cách nhanh chóng hơn và hiệu quả hơn để phụng sự nhân loại và để hợp tác với kế hoạch của Thánh Đoàn. Từ chỗ đó, các đạo sinh này tự đưa mình sẵn sàng hứng lấy các nguy hiểm và các khó khăn vốn dĩ có thể tránh được nếu họ chọn đi con đường chậm hơn và cũng chắc chắn hơn. Sự kiện này nên được tất cả các kẻ hành đạo trong các trường phái đó hiểu rõ và vấn đề nên được thận trọng giải thích cho người đang có sở vọng bước vào đường đạo (entering aspirant), để cho y có thể cảnh giác và tuân thủ một cách thận trọng các luật lệ và các giáo huấn. Y không nên để cho sợ hãi hay từ chối đưa chính mình vào tiến trình bắt buộc này, mà y nên tiến vào tiến trình đó với đôi mắt mở rộng và nên được dạy cách tranh thủ các biện pháp bảo vệ được đưa ra và học hỏi kinh nghiệm của các đạo sinh già dặn hơn.
Tất nhiên là cần nhấn mạnh vào tất cả các trường phái nội môn, và chú trọng vào việc tham thiền một cách hợp lý. Nói về mặt chuyên môn, tham thiền là tiến trình mà nhờ đó bí huyệt đầu được khơi hoạt, được đặt dưới sự kiềm chế và sử dụng. Khi xảy ra trường hợp này, linh hồn và phàm ngã được phối kết và dung hợp, sự nhất quán xảy ra, làm cho một dòng năng lượng tâm linh mãnh liệt tuôn chảy vào trong người tìm đạo; thúc đẩy cho toàn bộ con người hoạt động và làm lộ ra cái thiện cũng như cái ác tiềm tàng. Ở đây có ẩn nhiều khó khăn và nhiều nguy hiểm. Lại nữa các trường phái chân chính cũng cần phải nhấn mạnh vào tính thanh khiết và lòng chân thực. Con người thường quá chú trọng vào nhu cầu giữ cho thể xác được thanh khiết mà không nhấn mạnh nhiều vào việc tránh mọi sự cuồng tín (fanaticism) và thiếu khoan dung (intolerance). Hai tính chất sau này cản trở đạo sinh còn nhiều hơn là chế độ ăn kiêng sai lầm có thể cản trở nữa, và chúng mang lại các ngọn lửa chia rẽ nhiều hơn là bất cứ một yếu tố nào khác.
Thiền định bao hàm cách sống một cuộc đời luôn luôn và mỗi ngày nhất tâm tiến tới (One–pointed life). Tất nhiên điều này đặt một căng thẳng quá mức lên các tế bào não bộ vì nó đưa các tế bào bất động vào hoạt động và làm cho ý thức não bộ nhận biết ánh sáng của linh hồn. Tiến trình thiền định được sắp xếp này, khi diễn ra trong nhiều năm và được bổ túc bằng cách sống thiền định và nhất tâm phụng sự, sẽ khơi dậy một cách thành công toàn bộ hệ thống và đưa phàm ngã (lower man) vào dưới ảnh hưởng và sự kiềm chế của chân ngã (spiritual man); việc đó cũng sẽ khơi hoạt các trung tâm lực trong thể dĩ thái và kích hoạt luồng năng lượng huyền bí đang ngủ yên ở chót cột xương sống. Khi tiến trình này được tiến hành với sự bảo vệ an toàn thích hợp và thận trọng, và dưới sự hướng dẫn, khi tiến trình trải ra trong một thời gian dài thì có ít nguy hại xảy đến và việc khơi hoạt sẽ diễn ra một cách bình thường và đúng theo chính định luật hiện tồn. Tuy nhiên, nếu sự điều hợp và khơi hoạt được thúc đẩy hay được mang lại bằng các bài tập thuộc nhiều loại khác nhau trước khi đạo sinh chuẩn bị sẵn sàng và trước khi các thể được phối kết và phát triển, bấy giờ người tìm đạo sẽ bị đẩy về phía tai hoạ. Đừng bao giờ thực hành những bài tập thở (breathing exercises) hay luyện khí công (pranayama training) mà không có người hướng dẫn thành thạo và chỉ sau nhiều năm chuyên tâm phát triển tâm linh (spiritual application) sùng tín và phụng sự; việc định trí vào các bí huyệt trong thể sinh lực (với ý định khơi hoạt các bí huyệt đó) bao giờ cũng phải tránh, vì việc đó sẽ tạo nên sự kích thích quá độ và mở ra các cánh cửa vào cõi cảm dục mà đạo sinh có thể gặp khó khăn khi đóng lại. Tôi không thể gây ấn tượng quá mạnh vào những người tìm đạo trong mọi trường phái huyền linh mà môn yoga trong giai đoạn chuyển tiếp này là yoga có mục đích nhất quán, theo mục đích có định hướng, thực hành không ngừng về Bản Lai Diện Mục (Presence) của Thượng Đế và với sự thiền định được sắp xếp đều đặn, tiến hành một cách có phương pháp và kiên trì qua nhiều năm cố gắng.
Khi việc này được thi hành với lòng dứt bỏ và diễn ra song song với cuộc sống phụng sự theo lòng bác ái, thì việc khơi dậy các bí huyệt và việc đi lên của luồng hoả xà đang ở trạng thái hôn thuỵ sẽ tiến hành một cách an toàn và lành mạnh đồng thời toàn bộ hệ thống sẽ được đưa đến giai đoạn cần thiết, tức giai đoạn “sống còn” (“aliveness”). Tôi không thể khuyên các đạo sinh quá dựa vào việc noi theo các tiến trình thiền định mãnh liệt mỗi lần nhiều giờ, hay là dựa vào việc thực hành mà mục tiêu là làm đi lên (arousing) các ngọn lửa của thể xác, làm khơi hoạt một bí huyệt đặc biệt, và làm thức động hoả xà (serpent fire). Vào lúc này việc kích thích chung trên thế giới thì rất lớn, còn người tìm đạo bậc trung thì nhạy cảm và có cơ thể tinh nhạy đến nỗi việc thiền định quá mức, chế độ ăn kiêng khắc khổ (fanatical diet) rút ngắn giờ ngủ hay là quá chú trọng và nhấn mạnh vào kinh nghiệm tâm thông sẽ làm đảo lộn sự quân bình của thể trí và thường tạo ra cái hại không thể cứu chữa được.
Các đạo sinh trong các trường nội môn hãy bắt đầu chú tâm vào việc làm ổn cố, tĩnh lặng, không dựa vào tình cảm (unemotional). Họ hãy tự kiềm chế không để những giờ nghiên cứu và thiền định kéo dài. Cho đến lúc này các thể của họ đều không có khả năng chịu sự căng thẳng quá mức cần thiết và họ chỉ tự làm hại cho chính mình mà thôi. Hãy để cho họ sống theo các lối sống bận rộn bình thường, ghi nhớ sự thúc bách của bổn phận và cách phụng sự hằng ngày, luôn luôn nhớ rằng về thực chất họ là ai và các mục tiêu cùng cứu cánh của họ là gì. Họ nên thiền định đều đặn mỗi buổi sáng, bắt đầu bằng mười lăm phút và đừng bao giờ vượt quá bốn mươi phút. Mong cho họ tự quên mình bằng việc phụng sự và đừng tập trung sự chú ý của họ vào việc phát triển năng lực tâm thông riêng của họ. Mong sao họ luyện tập thể trí với một mức độ nghiên cứu bình thường và học cách suy tư một cách sáng suốt, sao cho trí của họ có thể làm quân bình các xúc cảm của họ và cho phép họ lý giải một cách chính xác những gì mà họ tiếp nhận được, khi mức độ hiểu biết của họ tăng lên và ý thức của họ mở rộng thêm.
Các đạo sinh cần ghi nhớ rằng lòng sùng tín đối với Thánh Đạo hay đối với Chân Sư vốn không đủ. Các Đấng Cao Cả đang tìm kiếm những người hợp tác và những người phụng sự sáng suốt hơn là tìm kiếm sự tôn sùng cho Cá Nhân của các Ngài, và một đạo sinh đang bước đi một cách độc lập dưới ánh sáng linh hồn mình thì được các Ngài xem như là khí cụ đáng tin cậy hơn là kẻ sùng đạo một cách cuồng tín. Ánh sáng linh hồn của người tìm đạo chân thành sẽ tiết lộ cho người này biết được sự hợp nhất ở dưới mọi nhóm, và giúp y loại bỏ cái độc hại của sự thiếu khoan dung đang làm ô trọc và gây chướng ngại cho rất nhiều người; ánh sáng này sẽ khiến cho y nhận biết được các nền tảng tinh thần đang hướng dẫn các bước tiến của nhân loại, nó sẽ thúc đẩy con người bỏ qua sự cố chấp, sự cuồng tín và sự chia rẽ vốn tiêu biểu cho kẻ có tâm trí hẹp hòi và kẻ sơ cơ trên Thánh Đạo và như thế giúp cho y yêu thương những người này đến nỗi họ sẽ bắt đầu nhìn thấy một cách trung thực hơn và mở rộng tầm hiểu biết của họ; ánh sáng này sẽ cho phép y đánh giá đúng đắn giá trị huyền linh của việc phụng sự và nhất là dạy cho y thực hành đức tính không gây tổn hại (harmlessness) vốn là đặc tính nổi bật của mỗi người con của Thượng Đế. Không gây tổn hại nghĩa là không nói lời nào có thể làm tổn thương người khác, không nghĩ đến bất cứ ý tưởng nào có thể gây độc hại hay tạo ra hiểu lầm, và không làm một hành động nào có thể gây thương tổn, dù tối thiểu, cho huynh đệ mình – đây là đức tính quan trọng nhất sẽ giúp cho đạo sinh huyền môn bước một cách an toàn trên con đường phát triển khó khăn. Khi nào đặt tầm quan trọng vào việc phụng sự huynh đệ mình và chiều hướng của sinh lực được chuyển ra thế giới bên ngoài, bấy giờ mới thoát khỏi nguy hiểm và người tìm đạo mới có thể làm việc, mong mỏi và thiền định một cách an toàn. Động lực của y trở nên trong sạch, và y đang tìm cách phá ngã chấp (decentralise his personality) và chuyển tụ điểm chú ý của mình ra khỏi chính mình để vào tập thể. Như vậy, sự sống của linh hồn có thể tuôn tràn qua y và tự biểu hiện thành tình thương đối với vạn hữu. Y biết được chính mình là một phần của một tổng thể và sự sống của tổng thể đó có thể tuôn đổ qua y một cách hữu thức, đưa y đến việc nhận thức về tình huynh đệ và về tính đơn nhất (oneness) của y liên quan với mọi sự sống biểu lộ.
VIỆC CẦN KÍP HIỆN NAY
Mồng 10, tháng 10 –1934.
Tôi có đôi điều cần nói với những ai là kẻ đang đọc các điều được trình bày trong các sách lớn, nhỏ của tôi, và những ai, với sự chú ý và tận tuỵ bằng tâm trí, đang cố noi theo đường lối tư tưởng của tôi.
Từ nhiều năm qua – kể từ năm 1919 – tôi đã tìm cách giúp mọi người bằng hết năng lực của tôi. Thánh Đoàn (một tên gọi bao gồm các đệ tử tu tập thuộc mọi đẳng cấp) trong hàng trăm thế hệ đã tìm cách giúp đỡ nhân loại, và từ thế kỷ mười lăm đã dần dần tiến gần đến cõi trần hơn và tìm cách tạo ra một ảnh hưởng sâu xa hơn trên ý thức nhân loại. Điều này đã tạo ra kết quả ở một nhận thức vốn có trong nó (vào lúc này) các mầm mống của việc cứu giúp thế gian. Cho đến thế kỷ thứ mười lăm, mới có sức thu hút và tiếng gọi thôi thúc từ phía các Huynh Trưởng đang quán sát. Ngày nay rất nhiều người là các đệ tử nội môn và ngoại môn, và rất nhiều người là những kẻ tìm đạo trên thế giới, sức lôi cuốn và tiếng gọi thu hút phần lớn được chia ra đồng đều, và những gì sẽ xảy ra trong việc phát triển trên thế giới và trong các nhận thức của nhiều chủng tộc sẽ là kết quả của sự tương tác của hai dự tính (tôi chọn các lời này một cách thận trọng) – dự tính của các Chân Sư để trợ giúp nhân loại và dự tính của những người tìm đạo và các đệ tử trên thế giới để tham gia vào sự trợ giúp đó.
Nói về mặt huyền linh, một tiếp điểm, một cơ hội (moment) “giao hoà tâm linh” (“spiritual intercourse”) sắp xảy ra, và nhờ cơ hội đó mà một thế giới mới có thể được sinh ra.
Nếu điều đó có thể xảy ra, thì bấy giờ có thể tái lập trên địa cầu tình trạng vốn đã kết thúc vào những ngày đầu, khi Thánh Đoàn (để thúc đẩy sự phát triển trí tuệ của con người) rút vào hậu trường trong một thời gian. Nếu sự giao tiếp tâm linh này có thể xảy ra, điều đó có nghĩa là Thánh Đoàn sẽ không còn bị che giấu và không ai biết, mà sẽ được nhận biết như là hiện hữu trên cõi trần. Tất nhiên là trước nhất việc này chỉ xảy ra ở một mức độ nhỏ, và việc nhận biết sẽ được giới hạn vào những người tìm đạo và các đệ tử. Càng lúc càng nhiều, Nhóm Người Mới Phụng Sự Thế Gian sẽ tích cực hoạt động trong mọi quốc gia và hoạt động trên khắp thế giới.
Hai ý tưởng mà tôi tìm cách khắc sâu vào trí bạn là, trước tiên tái lập mối quan hệ chặt chẽ này, và thứ đến, công việc thuộc loại thực tiễn mà mỗi người trong các bạn có thể làm để mang lại sự hiểu biết tổng quát này. Tôi tìm cách nhấn mạnh một điểm là hoạt động sau rốt sẽ mang lại biến cố tâm linh này phải xảy đến (must come) từ cảnh giới bên ngoài của cuộc sống hồng trần. Tất cả chúng ta, những kẻ bận tâm tới Thiên Cơ trong “ba năm tới đây” đều đang dốc hết sức tìm kiếm những kẻ có thể giúp đỡ chúng ta và những kẻ có thể đưa ra tiếng gọi về nỗ lực cuối cùng sẽ mang lại kết quả mong muốn và đoán trước được.
Tôi xin bắt đầu những gì mà tôi phải nói bằng cách nhắc nhở rằng tôi chỉ đưa ra sự gợi ý thôi và không có điều gì mà tôi nói ra, chứa đựng một chút uy quyền nào dù là nhỏ nhất, và cũng thế tôi biết được cái vô nghĩa thường có của những lời kêu gọi hợp tác như thế. Lịch sử của thế giới tư tưởng chứng minh sự thật là con người thường cảm thấy phấn khởi, được soi sáng và được trợ giúp bằng các ý tưởng và bằng sự hứa hẹn về một tương lai phát triển, nhưng khi ta mưu tìm sự trợ
Các nhận giúp của họ để thể hiện ý tưởng này thì bấy giờ niềm hy vọng và sự quan tâm của họ tàn tạ trên cõi trí hoặc là – nếu nó đạt tới cõi tình cảm và với ước muốn mạnh mẽ – thì sự hy sinh cần có để khai sinh ra hy vọng trên cõi trần lại thiếu mất hay quá yếu ớt không thể tạo ra kết quả như mong ước.
Những gì tôi phải nói ra, theo tôi là do sự cấp bách muốn mang lại sự hợp tác chặt chẽ hơn cho những ai chú tâm đọc tập sách nhỏ “Ba Năm Kế Tiếp” (“The Next Three Years”)(1), những điều đó không mang một chút xíu uy quyền nào. Tôi chỉ kêu gọi bạn với hy vọng làm mạnh thêm nỗ lực của bạn cho khoảng trống của hai năm kế tiếp (một năm đã qua rồi), bởi vì sau đầu mùa thu năm 1936, bất cứ nỗ lực nào theo đường lối đặc biệt này cũng sẽ hoặc là thất bại, hoặc là không còn bị đòi hỏi dưới hình thức đặc biệt này nữa.
Trách nhiệm duy nhất của tôi là đưa ra cơ hội cho những người tìm đạo trên thế giới để chỉ cho họ các khả năng có sẵn trước tình hình đặc biệt này, để đưa ra các đường lối hoạt động hữu ích, và kế đó (nhờ làm thế) rút đi sức mạnh của trí não và tư tưởng tôi, có như thế mỗi người tìm đạo mới tự do tiến tới các quyết định riêng của mình.
Tập sách “Ba Năm Kế Tiếp” ra đời vào lúc này quả là hợp với nhiệm vụ của nó. Mục đích của tập sách này là để hướng dẫn dư luận quần chúng. Nó mang theo cả linh hứng lẫn năng lực để tạo ra các nứt vỡ trong sự sống – các nứt vỡ đó sẽ tạo ra các hoạt động mới và chấm dứt cách hành xử cổ xưa của trí não. Một biến cố có thể xảy ra được chỉ rõ – đó là việc thành lập trên cõi trần nhóm người tìm đạo và các đệ tử mà, theo thời gian và cơ hội đã định, có thể cứu giúp cho một thế giới đau khổ và mang lại ánh sáng và sự cảm thông cho nhân loại. Tôi không cần nói thêm nữa về điểm này.
1 Luận về Huyền Linh Thuật, trang 401-433.
Luận về Bảy Cung, Q. I (Tâm Lý Học Nội Môn) trang 170-189.
Tất cả các bạn đều đã hiểu được cơ tiến hoá như đã được trình bày trong tập sách nhỏ này; và sự thách thức cho đức tin và tiếng gọi cho công cuộc phụng sự của bạn ở ngay trước mắt bạn. Hai năm kế tiếp sẽ chứng kiến sự định đoạt xem coi sự phối hợp của các nhóm phụng sự thế giới bên trong và bên ngoài có thể được hình thành, hoặc là mất nhiều thời gian hơn, trước khi sự hợp tác xưa cũ trước đây giữa Thánh Đoàn với nhân loại có thể được tái lập.
Tôi nói đến tình thương nhất là sự lo lắng và với một sự hiểu biết rộng rãi hơn về sự cần kíp hiện tại nhiều hơn là bạn có thể hiểu. Tôi diễn tả những gì tôi phải nói với bạn dưới hình thức một số câu hỏi, mà tôi đòi hỏi rằng bạn nên đặt ra cho chính bạn với sự trầm tĩnh và thành tâm.
- Tôi có thực sự mong muốn thiết lập sự tương tác chặt chẽ hơn giữa thế giới bên trong với thế giới bên ngoài chăng? Nếu mong muốn như thế, tôi phải chuẩn bị làm những gì để thể hiện sự mong muốn này ?
Với cách nào để tôi có thể có đóng góp nhất định vào mục đích mong muốn này ? Khi nhận biết các trường hợp đặc biệt của tôi, tôi có thể cống hiến gì vào
a. Việc thiền định
b. Việc hiểu biết về Thiên Cơ
c. Tình thương của các đạo hữu của tôi ?
Đừng quên rằng thiền định làm cho thể trí hiểu rõ được sự thật và bản thể của Thiên Cơ, trong khi sự hiểu biết đưa Thiên Cơ đó vào lãnh vực ước muốn, còn tình thương đưa ra dạng thức sẽ làm cho Thiên Cơ thể hiện trên cõi trần. Tôi kêu gọi bạn chú ý đến ba biểu hiện này của linh hồn bạn. Tất cả các bạn, không trừ ai, đều có thể phụng sự theo ba cách này, nếu bạn mong muốn như thế.
Vào lúc này, mục đích của mọi công việc phải làm là hướng dẫn dư luận quần chúng và làm cho những kẻ biết suy tư trên thế giới quen với sự cấp bách và cơ hội của hai năm sắp tới. Nếu điều này thực sự là như thế, tôi phải làm gì để cho điều này có thể xảy ra ? Hãy đi vào chi tiết câu hỏi này:
a.Trong hoàn cảnh tôi, tôi có nói với tất cả mọi người những gì tôi có thể nói, hay là tôi giữ kín vì sợ?
b.Tôi có thể phân phối rộng rãi tập tiểu luận về đề tài này không ? Việc phân phối tập tiểu luận đó dưới hình thức hiện tại chỉ có thể xảy ra vào mùa thu năm 1936, và do đó thời gian chỉ còn ngắn ngủi.
c.Tôi có thể trợ giúp bằng phương tiện vật chất và tài chính đến mức nào? Phải chăng cho đến giờ tôi có thể làm nhiều hơn là tôi đã làm để giúp đáp ứng với nhu cầu này?
Ngoài thì giờ của tôi, tôi có thể cống hiến thêm gì nữa để giúp vào việc này, ngõ hầu trợ lực cho những ai đang truyền bá tập tiểu luận, hay để tụ tập nhiều người lại với nhau trong việc bàn thảo? Có thể đôi khi tôi không dốc hết thì giờ mỗi ngày vào ý tưởng và việc phụng sự rõ rệt này chăng?
Muốn đáp ứng với lời kêu gọi của tôi, phải cần đến sự hy sinh, nhưng ngày nay, tất cả những ai thấu hiểu Thiên Cơ, đều đang tự mình đem hết nỗ lực nâng cao nhân loại từ nấc thang này đến nấc thang khác và vào ánh sáng rạng rỡ hơn. Bàn tay của họ cần được làm cho mạnh thêm, công việc của họ cần sự trợ giúp và không một ai trong các bạn mà không thể làm được nhiều hơn là bạn đang làm nhờ sự trợ giúp của việc tham thiền, tiền bạc và tư tưởng, để cứu độ thế gian, để hướng dẫn dư luận quần chúng và nhờ thế mang lại Kỷ Nguyên Mới.
MỘT CƠ HỘI THỬ THÁCH
(A CHALLENGING OPPORTUNITY)
Tháng 4 – 1935
Trong Lễ Wesak năm nay, các Đấng Cao Cả, hiện đang tìm cách nâng nhân loại đến gần Linh Quang hơn, đồng thời mở rộng tâm thức của nhân loại, sẽ gom góp thần lực của các Ngài cho kỳ tiếp cận mới với các hậu quả tất nhiên của nó. Các hậu quả này là việc thúc đẩy gia đình nhân loại đi đến một nỗ lực tâm linh mới; tiến trình và Nhân Sự cao cấp có liên quan đã được tôi mô tả trong thông điệp trước của tôi (Luận về Bảy Cung, Q. II, Tâm Lý Học Nội Môn, trang 683 – 688); các Ngài cũng sẽ làm tăng thêm sức mạnh của Nhóm Người Mới Phụng Sự Thế Gian để cho các nhóm ấy hoạt động một cách có hiệu quả hơn, có thể hình dung ra Thiên Cơ một cách rõ ràng hơn và – chính họ với tư cách một nhóm – sẽ mang lại sự hội nhập to tát hơn. Như vậy những người này có thể giúp vào việc thi hành các kế hoạch của Hội Đồng Thánh Đoàn hầu đáp ứng với tình hình khẩn cấp trước mắt của nhân loại. Như trước kia tôi nói với bạn, các kế hoạch cho nhân loại không được đề ra, vì nhân loại tự định đoạt vận mệnh của mình; nỗ lực được hướng đến việc thiết lập một mối liên hệ chặt chẽ hơn giữa nhân loại với Thánh Đoàn.
Mọi người tìm đạo và các đệ tử đều có thể tham dự vào nỗ lực này đến mức làm cho công việc của các Chân Sư được dễ dàng hơn bằng sự suy tư sáng suốt của họ, bằng nỗ lực tinh thần đổi mới của họ và bằng sự tái hiến dâng chính mình cho công cuộc phụng sự. Tôi kêu gọi các bạn nỗ lực trong việc này. Một cố gắng liên tục cần được kéo dài trong nhiều năm. Cơ hội sẽ đến với tất cả những người phụng sự và người tìm đạo chân chính, nhất là với Nhóm Người Mới Phụng Sự Thế Gian để tham gia vào việc tạo ra động lực cần thiết trong chu kỳ trước mắt.
Do đó, tôi kêu gọi các bạn dành một tháng để tĩnh tâm (inner silence), tự vấn (introspective thought), tự kiểm (self control) và thiền định, để quên mình (self–forgetfulness) và để tâm vào cơ hội chứ không để tâm vào việc đạt được đạo tâm bên trong cho riêng mình. Tôi kêu gọi các bạn tập trung vào nhu cầu hoà bình cho thế giới, cảm thông lẫn nhau và giác ngộ, đồng thời hoàn toàn quên đi các nhu cầu riêng của mình – tức nhu cầu của thể hạ trí, thể cảm dục và thể xác. Tôi kêu gọi các bạn khấn nguyện và ăn chay, dù rằng sự tiết chế của bạn theo đường lối nào đi nữa là do phần bạn quyết định. Trong năm ngày thiền định, tôi kêu gọi các bạn “ăn chay” đầy đủ hơn (more complete “fasting”), trầm mặc thâm sâu, an trụ vào nội tâm, giữ cho tư tưởng được trong sạch, tinh thần linh hoạt với sự ân cần đầy tình thương để làm cho bạn thành một vận hà tinh khiết. Như thế, công việc của Thánh Đoàn sẽ trở nên dễ dàng hơn, và cánh cửa được mở rộng ra cho các mãnh lực làm hồi sinh của các Đấng Cao Cả Ngoài Hành Tinh (extra planetary Beings) vào lúc này, các Đấng ấy đang đưa ra sự trợ giúp, đặc biệt là trong năm 1936. Sự đáp ứng với kỳ lễ này sẽ đề ra một tiêu chuẩn cho cơ hội dành cho sự hướng dẫn của các Đấng Cao Cả. (Chủ đề này được bàn rộng trong bộ: “Luận về Bảy Cung” Q. II; Tâm Lý Học Nội Môn, các trang 629 – 751, gồm các bài viết từ tháng 5 – 1935 đến tháng 4 – 1938).
Tôi cũng sẽ đòi hỏi các bạn thực hành. Mỗi đêm và mỗi sáng bạn sẽ thốt lên, với cả lòng khao khát của tâm hồn, cũng như với sự chú tâm của thể trí, các lời sau đây. Việc đồng thanh thốt lên các lời đó sẽ tạo ra một sự nhịp nhàng và một động lực thúc đẩy vô cùng mạnh mẽ.
Khấn xin Quang Minh Lực mang lại giác ngộ cho muôn người.
Khấn cho Tinh Thần Hoà Bình lan toả khắp muôn phương. Mong cho thiện nhân nơi nơi đáp ứng với lòng hợp tác. Mong cho chủ âm của mọi người nay là thứ dung.
Mong sao quyền năng đi kèm nỗ lực của Đấng Cao Thâm. Mong sao như nguyện giúp con hoàn tất vai trò thế nhân.
Các lời này có vẻ giản dị, nhưng “Mãnh Lực của Linh Quang” (“Forces of Light”) là tên gọi dành cho một số Quyền Năng (Powers)mới, đang được Thánh Đoàn đưa ra vào lúc này, có tiềm lực tạo nên hoạt động to tát, vào kỳ Trăng Tròn tháng năm nếu nỗ lực được tạo ra đúng lúc. Tinh Quân Hoà Bình đã được cầu khẩn là một Đấng liên hành tinh có mãnh lực to tát mà sự hợp tác đã được hứa hẹn nếu mọi người tầm đạo và các đệ tử có thể hợp tác để vượt qua lớp vỏ chia rẽ và oán hờn đã cầm giữ hành tinh chúng ta trong ngục tù.
Do đó, tôi có thể kết thúc bằng các lời đơn giản này: hỡi huynh đệ, xin hãy giúp chúng tôi.
CÁC NHÓM MẦM MỐNG TRONG KỶ NGUYÊN MỚI
Tháng 7 – 1937
Trước đây tôi có đưa ra cho bạn một số ý tưởng liên quan đến các nhóm mới hoạt động theo Định Luật Tiến Hoá của Nhóm. Đặc biệt là định luật này có liên quan chặt chẽ với Kỷ Nguyên Mới, Kỷ Nguyên Bảo Bình (1).
Luôn luôn có các nhóm này trên thế giới, thí dụ với tư cách đơn vị nhóm gia đình, nhưng họ chủ yếu là các nhóm thuộc cung ba, do đó có biểu hiện và sự kiềm chế chủ yếu ở bên ngoài, và bắt nguồn từ kết quả của ham muốn. Tiêu điểm của họ nổi bật là vật chất, và đó là một phần của kế hoạch đã định. Tính chất không thiên lệch và biểu hiện đúng đắn là mục tiêu và vẫn là mục tiêu của tiến trình thăng thượng tiến hoá. Nhưng các nhóm đang thành lập hiện giờ là hoạt động của cung hai và là các nhóm kiến tạo – đang tạo ra các hình thức biểu lộ trong kỷ nguyên mới. Các nhóm đó không phải là kết quả của ham muốn như tên gọi mà người ta thường hiểu, vì chúng được thành lập về căn bản là dựa vào sự thôi thúc tinh thần. Thực ra, chúng có bản chất chủ quan chớ không phải khách quan. Chúng được phân biệt bằng tính chất nhiều hơn là bằng hình thức. Ước gì cuối cùng chúng có thể tạo ra được các hiệu quả bên ngoài mạnh mẽ như mong đợi và đó là ý định của họ trong trí chúng ta, nhưng – ở giai đoạn hiện nay vốn là giai đoạn mầm mống – các nhóm đó thuộc nội giới và (nói về mặt huyền linh), họ đang “hoạt động trong bóng tối”. Vào một ngày xa xăm nào đó, các nhóm này sẽ xuất hiện, sẽ là các nhóm thuộc cung một, được làm cho linh hoạt bằng trạng thái ý chí và tất nhiên vẫn có bản chất cá nhân (subjective, chủ quan) hơn và có cội nguồn huyền bí hơn, nhưng chúng ta không cần quan tâm đến vấn đề này.
1 Luận về Bảy Cung, Q.II (Tâm Lý Học Nội Môn) trang 174-194.
Các nhóm giống này vẫn còn phôi thai, do đó giống như các hạt giống đang nẩy mầm, hoạt động của chúng hiện nay có tính chất lưỡng phân (dual). Mọi hạt giống đều biểu lộ sự sống của nó bằng cách để lộ ra ngoài hai dấu chỉ cho thấy sự sống và hoạt động bên trong của nó, và không có ngoại lệ cho các nhóm giống này theo định luật chung. Hoạt động của các nhóm đó được chứng tỏ bằng một liên hệ với Thánh Đoàn và mối liên hệ của các nhóm với nhau. Các nhóm này chưa thành công trong việc xuất hiện vào hoạt động ở ngoại giới. Sự sống nội tâm của các nhóm không đủ mạnh, nhưng theo kinh sách ghi, chúng “đang bắt rễ bên dưới” để “cho quả bên trên”.
Phải chi các nhóm này phát triển theo như dự tính, phải chi cuộc sống hợp nhất của các thành viên kéo dài trong mối liên hệ toàn vẹn thích hợp và phải chi chủ âm của họ là sự liên tục (continuance), thì bấy giớ các nhóm giống này, dù là rất nhỏ, cũng sẽ nở rộ, và do “việc gieo rắc hột giống sau rốt”, mà cuối cùng sẽ thành công trong “việc bao phủ đất bằng màu xanh”. Ở đây tôi nói bằng loại ngôn ngữ tượng trưng, mà như bạn biết rõ, đó là ngôn ngữ của chân lý. Đến phiên nó, cây nhỏ tiếp tục tạo ra hột giống, nhờ có quả thích hợp, như thế có thể tạo ra cho nó một trật tự đa dạng. Do đó, đừng nên tạo ấn tượng quá đáng bằng nỗ lực nhỏ bé. Một hột giống rất nhỏ lại là một lực mạnh mẽ – nếu được dự tính đúng, bảo dưỡng thích hợp, lại được mặt trời và nước bên trong đất làm cho chín tới – thì tiềm lực của nó không thể tiên đoán được.
Một vài ý tưởng mầm mống đang hiện ra trong ý thức nhân loại. Đặc biệt là các ý tưởng này khác với ý tưởng của quá khứ, và chính các ý tưởng khác nhau rất nhiều này là các đặc điểm phân biệt của kỷ nguyên mới, kỷ nguyên Bảo Bình. Từ trước đến giớ các ý tưởng lớn lao mà sau rốt thành công trong việc kiềm chế một chủng tộc ở bất cứ thời đại nào đều là món quà của những người con có trực giác của nhân loại dành cho thế hệ của họ. Bấy giờ, người tiến hoá nhờ hiểu rõ ý tưởng do trực giác tạo ra nên gắn liền ý tưởng đó vào tiến trình hoạt động của trí tuệ (process of mentation) làm cho ý tưởng đó có thể được ưa thích và kế đó thấy nó được hình thành qua “trung gian của nhận thức” theo cách gọi của huyền linh học. Một thể trí giác ngộ sẽ cảm nhận được ý tưởng thiêng liêng, cần cho sự tăng trưởng của ý thức nhân loại và bấy giờ sẽ mang lại cho nó hình dạng; một số ít người sẽ nhận biết được ý tưởng đó và như vậy nuôi dưỡng cho nó phát triển lên; sau rốt nhiều người sẽ ham thích ý tưởng đó và bấy giờ nó có thể biểu hiện ra bằng thực nghiệm và ở rải rác trên khắp thế giới văn minh của bất cứ thời đại nào, bất cứ nơi đâu nền văn hoá thuộc bất cứ loại nào cũng tự cảm nhận được nó. Ý tưởng được biểu hiện như thế đó.
Hai cách thức mà các ý tưởng có tính quyết định này đã xuất hiện trong quá khứ và góp phần trong việc hướng dẫn nhân loại tiến tới nên được ghi nhớ. Một cách là xuyên qua việc giảng dạy của một huấn sư đã lập ra trường phái tư tưởng đó, như vậy tác động qua thể trí của một số ít người được chọn lựa, và sau rốt nhờ những người này mà tác động tới (coloured) tư tưởng của con người thuộc thời ấy. Các huấn sư như Plato, Aristotle, Socrates (1) và nhiều vị khác nữa là các thí dụ nổi bật. Một cách nữa là gợi ra sự ham thích của quần chúng đối với những gì được cho là đáng ưa thích và thay đổi quan điểm của quần chúng hướng đến cách biểu lộ một cuộc sống sung mãn hơn. Cách biểu lộ sự sống này được căn cứ vào một ý tưởng đã bày tỏ nào đó, được thể hiện trong một cuộc sống lý tưởng. Như vậy công việc của các Đấng Cứu Độ thế giới đã hiện ra và điều này đưa tới sự xuất hiện một tôn giáo thế giới.
Phương pháp thứ nhất hoàn toàn bằng trí cho dù ngày nay cũng vẫn như thế; thí dụ, quần chúng không biết nhiều về Plato và các thuyết lý của ông mặc dù sự thật là ông đã uốn nắn thể trí nhân loại – hoặc bằng cách chấp nhận các lý thuyết của ông, hoặc là bằng cách bài bác lý thuyết đó – qua các thời đại. Phương pháp kia là hoàn toàn về tình cảm và như thế tác động một cách dễ dàng hơn vào ý thức quần chúng. Một thí dụ của phương pháp này là thông điệp về tình thương của Thượng Đế mà Đức Christ đã đưa ra và phản ứng tình cảm của quần chúng đối với cuộc đời của Ngài, thông điệp của Ngài và đức hy sinh của Ngài. Như vậy, nhu cầu của một số ít người thiên về trí tuệ và nhiều người thiên về tình cảm đã được đáp ứng qua các thời đại. Trong mọi trường hợp, cội nguồn của công việc đã có ảnh hưởng và phương tiện (mà nhờ đó nhân loại được hướng dẫn) là ý thức thiêng liêng của nhân loại, phương tiện này là phàm ngã, kẻ nhận biết, cảm thấy và nhất quán với thế giới ý tưởng, với trật tự của thế giới nội tâm và với Thiên Cơ. Kết quả của hai phương pháp hoạt động này là luồng thần lực phát ra từ một tầng lớp hay mực độ nào đó của ý thức thế gian – thuộc cõi trí hoặc cõi tình cảm – vốn là các trạng thái ý thức của thiên tính đang biểu lộ. Ảnh hưởng của mãnh lực này đã gợi ra một đáp ứng nơi những kẻ đang hoạt động ở trình độ này hay trình độ hiểu biết khác. Ngày nay khi sự hội nhập của gia đình nhân loại đang diễn tiến và khi mức độ tiếp xúc ở cõi trí trở nên mạnh mẽ hơn, nhất định là có một phản ứng mạnh mẽ của nhân loại đối với các trường phái tư tưởng và một phản ứng nhẹ nhàng hơn đối với các phương pháp của tôn giáo chính thống. Điều này do bởi sự kiện là khuynh hướng của ý thức nhân loại (tôi tạm diễn tả như thế) cách xa mức độ ý thức về tình cảm hơn là về trí tuệ, và khi xét về mặt quần chúng, khuynh hướng này tiếp tục tăng lên.
1 Aristotle (384-322 tr.CN) đệ tử của triết gia Plato. Aristotle đứng đầu phái Tiêu Dao, đưa ra Tam Đoạn Luận.
Plato (427-347tr. CN) môn đồ của Socrates.
Socrates (469-399 tr. CN) nổi danh với câu: “Hãy tự biết mình” (ND)
Nay đã đến lúc có đủ người có thể sử dụng kỹ thuật mới – nhờ chính những người này đã tạo được các tiếp cận bằng tôn giáo và bằng trí tuệ đối với các yếu tố cố định của chân lý trong ý thức của họ ở một mức độ nhỏ và nhờ thiết lập đủ sự tiếp xúc với linh hồn, để cho họ có thể bắt đầu đạt tới thế giới ý tưởng (trên các phân cảnh trực giác của ý thức). Cùng chung với nhau và với tư cách một nhóm họ có thể trở nên nhạy cảm với các ý tưởng mới đến, vốn được dự kiến sẽ chi phối kỷ nguyên mới sắp đến với chúng ta; cùng chung với nhau và với tư cách một nhóm, họ có thể tạo nên các lý tưởng và phát triển các kỹ thuật cùng các phương pháp cho các trường phái tư tưởng mới sẽ định đoạt nền văn hoá mới; cùng chung nhau và với tư cách một nhóm họ có thể đưa các ý tưởng và lý tưởng này vào tâm thức quần chúng, để cho các trường phái tư tưởng và các tôn giáo trên thế giới có thể được pha trộn thành một, và nền văn minh tân tiến có thể xuất hiện. Đó sẽ là sản phẩm của sự phối hợp trí tuệ và tính cảm đối với các kỹ thuật thuộc kỹ nguyên Song Ngư, và như thế việc đó sẽ tạo ra một biểu hiện sau rốt trên cõi trần đối với Thiên Cơ trong tương lai trước mắt. Đây là hình ảnh nằm đằng sau thực nghiệm được tiến hành trong các nhóm giống mới.
Khi xem xét toàn bộ vấn đề theo một quan điểm khác, có thể nói rằng nỗ lực của quá khứ là nâng cao ý thức của nhân loại qua các cố gắng tiên phong của các đứa con ưu tú của nhân loại. Cố gắng trong tương lai sẽ là đưa vào biểu hiện ý thức của linh hồn nhờ nỗ lực đi đầu của một số nhóm. Do đó, như bạn sẽ dễ dàng hiểu, đó phải là một nỗ lực tập thể bởi vì linh hồn có ý thức tập thể chớ không có ý thức cá nhân; các chân lý mới mẻ hơn của Kỷ Nguyên Bảo Bình chỉ có thể được hiểu như là kết quả của nỗ lực tập thể. Đây là một điều tương đối mới. Trong quá khứ một người có tầm nhìn xa (vision) và tìm cách thể hiện tầm nhìn xa đó với sự trợ giúp của những người mà y có thể gây ấn tượng và tạo ảnh hưởng cho việc suy tư như y đã làm; một người cảm nhận được một ý tưởng hay trực nhận được một ý tưởng, rồi kế đó cố gắng mang lại cho nó dạng thức, sau đó kêu gọi sự trợ giúp của những người biết được ý tưởng của mình như là một lý tưởng; thực ra một người có tham vọng lớn thì chỉ hiểu biết mơ hồ về một phần của Thiên Cơ chung, và bấy giờ y trở thành người đứng đầu nhóm hay là một người chi phối, với sự trợ giúp của những người thất bại trước quyền lực của mình hay là trước quyền hạn của mình để chỉ đạo, hướng dẫn và chế ngự họ. Và như thế, dần dần nhân loại được hướng dẫn từ trình độ này đến trình độ khác, từ giai đoạn này đến giai đoạn khai mở khác cho đến ngày nay, nhiều người đang thấy được linh ảnh, nhận thức được Thiên Cơ và mơ các giấc mơ mà họ có thể cùng nhau thể hiện. Họ có thể làm điều này bởi vì họ biết rõ nhau, bởi vì họ đang bắt đầu biết được chính họ và biết lẫn nhau với tư cách là linh hồn, bởi vì sự cảm thông của họ được hợp nhất và bởi vì (và đây là điều quan trọng nhất) ánh sáng của trí tuệ, ánh sáng của tri thức, ánh sáng của trực giác và ánh sáng của sự cảm thông được khơi hoạt trong họ; ánh sáng đó đang tiến vào không phải từ bên ngoài; và trong ánh sáng đó, họ cùng thấy được Diệu Quang (LIGHT). Đó là một hoạt động tập thể, một nhận thức tập thể, và là kết quả của sự nhất quán tập thể (group at–one–ment).
Tuy nhiên, mọi điều này thì mới mẻ và tương đối hiếm có, đến nỗi cho đến nay, các nhóm này vẫn còn ở giai đoạn phôi thai. Chúng ta gọi đó là các nhóm giống của kỷ nguyên mới. Như tôi đã nói với bạn trước đây, có nhiều nhóm như thế, nhưng cho đến nay tất cả đều nhỏ và kém phát triển đến nỗi sự thành công đối với nỗ lực của các nhóm ấy vẫn do tương lai quyết định. Điều này cũng áp dụng cho các nhóm mà tôi bắt đầu thành lập năm 1931 (Đường Đạo trong Kỷ Nguyên Mới, I và II).
Do đó, điều hiển nhiên đối với bạn là tại sao việc đó lại cần thiết cho nhóm mở đầu hay nhóm đầu tiên khi nhấn mạnh vào việc giao tiếp bằng viễn cảm, bởi vì dựa vào mối liên hệ đó mà sự cảm thông được vun trồng và phát triển, sự thành công mà các nhóm giống này phải tuỳ thuộc vào. Điều đó không có nghĩa là sự thành công của họ tuỳ vào sự thành công được thiết lập của nhóm thứ nhất, mà dựa vào sự hiểu biết của tất cả các nhóm có dụng ý, mục đích và có các kỹ thuật về viễn cảm (Xem “Viễn Cảm và Thể Dĩ Thái” – Telepathy and the Etheric Vehicle).
Việc thiết lập dựa vào các mức độ bên trong (inner planes) của một trường phái viễn cảm mà nhân loại có thể trở nên nhạy bén với nó, cho dù một cách vô thức, vốn là một phần của nhiệm vụ mà nhóm thứ nhất, tức là Các Nhà Giao Tiếp bằng Viễn Cảm (Telepathic Communicators), đảm nhận. Họ là những kẻ bảo quản mục đích của nhóm và hoạt động trên các phân cảnh trí tuệ. Nhóm thứ hai, tức các Nhà Quan Sát Lão Luyện (Trained Observers), có mục đích muốn nhìn thấy rõ ràng nhờ dùng trực giác; họ phụng sự trên các phân cảnh cảm dục. Nhóm thứ ba, Những Nhà Chữa Bệnh Bằng Từ Điển (Magnetic Healers) có mục đích hoạt động với các lực cõi trần. Sáu nhóm kia sẽ được nhắc đến sau này.
Bạn đã trở nên quen thuộc phần nào với quan niệm của các nhóm này. Sự mới lạ đang tàn phai và sau rốt bạn có khuynh hướng tự hỏi xem có điều gì thực sự mới nơi họ hay không. Tôi sẽ đưa ra thêm cho bạn ba lý do về sự thật của bản thể họ trước một bước so với bất cứ những gì từ trước đến giờ có thể có trên cõi trần. Điều này có thể tái lập sự quan trọng của chúng trong trí bạn và cho phép bạn tiến hành công việc của bạn với sự hăng hái mới. Tôi đã nói rằng các nhóm này tạo thành một thực nghiệm và rằng họ được liên kết chặt chẽ với công việc của kỷ nguyên mới khi kỷ nguyên đó tự biểu hiện qua nền văn minh sắp đến và nền văn hoá sau này. Ở đây, có thể là có giá trị nếu tôi nêu ra sự dị biệt hiện có giữa một nền Văn minh với một văn hoá.
Văn minh là một biểu hiện của trình độ ý thức của quần chúng khi ý thức đó thể hiện thành sự hiểu biết ở cõi trần, thành các điều chỉnh, các mối liên hệ và các cách sống ở cõi trần. Văn hoá, chủ yếu là biểu hiện của các ý nghĩa hết sức thiên về trí tuệ lẫn tinh thần và trạng thái ý thức của những người an trụ vào thể trí trong nhân loại, của giới trí thức hay là của những kẻ tạo ra khoen nối giữa thế giới bên trong (inner world) của sự sống linh hồn với thế giới bên ngoài (outer world) của cõi hiện tượng hữu hình. Lẽ sống (the raison d’être) của cõi trí được diễn đạt một cách rõ rệt bằng các lời này. Trong vài thập niên tới đây, chức năng của nó trong mối liên hệ này sẽ ngày càng được hiểu rõ.
Đa số con người đều tiêu cực đối với cõi dục vọng và cõi cảm giác, còn nền văn minh của bất cứ thời đại nào phần lớn đều là biểu hiện bên ngoài của trình độ ý thức đặc biệt đó. Giới trí thức thì tích cực và sự định hướng tích cực bằng trí của họ tạo ra văn hoá (culture) của thời họ hay chủng tộc hoặc cộng đồng của họ. Do đó trong gia đình nhân loại chúng ta có:
Quần chúng … Tiêu cực … đáp ứng với dục vọng … Văn minh
Kẻ trí thức ..…. Tích cực …… đáp ứng với trí tuệ ….…… Văn hoá
Trong các điều này bạn có hai thái cực để phân biệt nhân loại, và chính nhờ sự tương tác giữa hai cực này mà sự hoạt động, sự tiến bộ và phát triển của con người được phát sinh và tiến hành.
Có một nhóm khác không nên bỏ qua. Người có thể trí thiên về tâm linh trên thế giới đều tiêu cực đối với thế giới tâm linh cao siêu khi nó tự biểu hiện qua hay gây ra loại ham muốn cao thượng mà chúng ta gọi là đạo tâm (aspiration). Đạo tâm tạo ra những người lỗi lạc có bản chất tâm linh, họ tạo thành – trong một đoàn thể – Giáo Hội của Đức Christ hay các Tôn giáo trên thế giới theo ý nghĩa công truyền và trong bất cứ giống dân hay thời kỳ nào.
Các nhà huyền bí học và những người tìm đạo trên khắp thế giới vốn tích cực đối với nhóm này và mang lại cho họ chủ âm của văn hoá thuộc thời đại đặc biệt của họ trên vòng xoắn cao hơn này. Những người này đáp ứng với trạng thái trí tuệ. Bằng cách này, nền văn hoá tâm linh và hậu quả là nền văn minh xuất hiện và cái thấp trở nên đáp ứng với nó. Do đó bạn có quần chúng và các nhà trí thức, đến phiên họ, đồng loạt tiêu cực so với ấn tượng tích cực của nền văn minh và văn hoá sâu xa hơn khi nó biểu hiện qua các tôn giáo trên thế giới và các nhóm người nội môn lý tưởng đang đi tìm thực tại. Những người sau này là cái vinh quang của mọi thời đại và là mầm mống tích cực của sự thôi thúc chủ quan đang khai mở mà về căn bản vẫn là cội nguồn của mọi biểu hiện thông thường của cõi hiện tượng.
Nhóm các nhà nghiên cứu tôn giáo và các nhà tìm đạo huyền bí này, đến phiên họ, lại tạo ra đối cực âm so với ấn tượng và năng lượng dương của hành tinh hay Thánh Đoàn huyền linh. Tất nhiên là chúng ta có :
Các nhóm tiêu cực
Quần chúng
Các giáo hội và tôn giáo
Đến lượt các nhà nội môn học (Esotericists)
Các nhóm tích cực
Giới trí thức
Các nhà nội môn học– người tìm đạo và nhà huyền bí học
Thánh Đoàn Hành Tinh
Nói chung các nhóm này tự chia thành các nhóm hướng ngoại, các nhóm hướng nội, thành các mức độ ý thức khách quan và chủ quan, và thành các chi nhánh chính yếu của cõi hiện tượng và cõi giới của các thực tại tâm linh.
Vấn đề trước mắt Thánh Đoàn vào lúc bắt đầu Kỷ Nguyên mới hay Kỷ Nguyên Bảo Bình là làm thế nào để hoà hợp và trộn lẫn hai nhóm khác nhau này, với thái độ hay trạng thái ý thức sao cho nhờ sự phối hợp đó mà một nhóm thứ ba có thể xuất hiện, bên ngoài theo hoạt động của nó, tuy nhiên các giá trị bên trong vẫn linh hoạt một cách hữu thức; họ có thể tác động trên cõi sắc tướng bên ngoài, đồng thời cũng được khơi hoạt và linh động trên cõi thực tại nội tâm và cõi sinh hoạt tinh thần.
Loại hoạt động song hành này là hoạt động dễ dàng nhất cho các Thành Viên của Thánh Đoàn và tạo thành điều kiện thiết yếu (sine qua non) trước khi liên kết với Thánh Đoàn. Cần hiểu rằng nhiều người có thể được luyện tập để có được khả năng này và phát triển từ từ đến mức mà lý thuyết có thể chuyển thành thực hành. Tuy nhiên những người này sẽ không thay đổi được toàn thể bản chất của họ theo cách như thế để cho họ sẵn sàng trở thành một phần của Thánh Đoàn huyền linh, ngay cả trong giai đoạn đệ tử chính thức.
Chính sự nhận thức về việc cần có một nhóm trung gian, không hoàn toàn tiêu cực cũng không hoàn toàn tích cực đã thúc đẩy một vài vị trong số các Chân Sư (các vị này có liên hệ với Thánh Đoàn) để tạo thành Nhóm Người Mới Phụng Sự Thế Gian. Những người này không thuộc vào nhóm nào trong hai nhóm đó, tuy thế họ có thể hành động ít nhiều liên hệ đến cả hai. Như bạn biết rõ, việc này được thực hiện với một mức độ hoàn toàn thành công và nhóm lớn này hiện giờ đang có mặt và có đủ sức thu hút để lôi cuốn sự đáp ứng của một số lớn những người tìm đạo và kẻ phụng sự trên thế giới (những người này tiêu biểu cho nền văn minh và văn hoá hiện đại) và đồng thời hấp thụ và nhờ thế, họ truyền chuyển được kiến thức, minh triết, huyền lực và diệu quang của Thánh Đoàn Hành Tinh.
Hiện giờ dường như có thể tạo thành các nhóm bên trong Nhóm Người Mới Phụng Sự Thế Gian mà các thành viên của nhóm này có thể bắt đầu tự chuẩn bị để biểu hiện cả về mặt hiện tượng lẫn sự thôi thúc, tiêu cực lẫn tích cực, vật chất lẫn tinh thần với mức thành công đến nỗi, vào đúng lúc, có thể xuất hiện trên địa cầu một mô phỏng của Thánh Đoàn, cùng các phương pháp và các kỹ thuật làm việc của Thánh Đoàn này. Đó là mục tiêu của các nhóm mà tôi đã thành lập và của các nhóm khác khắp thế giới – dưới một cách khác và hình thức khác, và có lẽ dùng một cách diễn tả khác – tuy thế các nhóm đó được thúc đẩy và kích hoạt như các nhóm giống mà chính tôi chịu trách nhiệm.
Vì lẽ đó, ba lý do về sự quan trọng của chúng có thể được đưa ra như sau :
- Chúng tạo thành mầm mống của sự sống đưa đến việc xuất lộ của Thánh Đoàn vào một ngày gần đây trên trái đất, ra khỏi nơi ẩn tích của các thời đại để hoạt động trở lại dưới ánh sáng của chuỗi ngày trần tục.
- Họ là một nhóm trung gian nối liền giữa khối nhân loại tiêu cực với cơ quan đại diện tích cực của Thánh Đoàn. Đó là lý do giải thích tại sao, trong các nhóm này, tầm quan trọng được đặt vào việc phụng sự (service) bởi vì điều đó tượng trưng cho sự đáp ứng với quần chúng và nhu cầu của quần chúng và dựa vào sự giao tiếp với linh hồn, vì việc đó tượng trưng cho sự đáp ứng với thế giới của linh hồn, như được chọn làm kiểu mẫu cho chúng ta trong Thánh Đoàn huyền linh (occult Hierarchy).
- Với tư cách một nhóm, họ cũng nắm giữ trong chính họ các mầm mống của nền văn minh sắp đến và mầm mống của văn hoá mới. Mầm mống của sự sống trong kỷ nguyên mới là ở đó, bên trong lớp vỏ của kỷ nguyên cũ và các hình thức cũ. Đây là cơ may, dịp phụng sự và các khó khăn của các nhóm này.
Tôi xin cố gắng đưa ra cho bạn thấy bằng cách nào mà các nhóm này có thể đạt đến ba nhu cầu hay là ba cơ hội được nói đến ở trên.
- Họ che đậy và bảo dưỡng mầm mống hay hột giống của nền văn minh mới trong Kỷ Nguyên Bảo Bình (Aquarian Age)
- Họ nối liền giữa các nhóm cũ với nhóm mới, giữa đa số nhân loại (trong đó kẻ tiến bộ nhất tìm được con đường đi vào Nhóm Người Mới Phụng Sự Thế Gian) với Thánh Đoàn Hành Tinh.
- Trong tương lai, họ sẽ tạo thành một khía cạnh của Thánh Đoàn và công việc của Thánh Đoàn trên trần thế.
Bạn nên ghi nhận rằng cơ hội đầu tiên liên quan đến trạng thái tâm linh (the spirit aspect) hay trạng thái sự sống có sức thu hút thiết yếu của thiên tính; còn cơ hội thứ hai liên quan đến trạng thái linh hồn (the soul aspect) hay trạng thái ý thức chủ quan của thiên tính, trong khi cơ hội thứ ba liên quan đến trạng thái xác thân hay là biểu hiện ở cõi trần, qua ý thức, của sự sống thiêng liêng. Ba nhóm đầu mà tôi đã tạo ra được dự kiến là các hình ảnh nhỏ của ba trạng thái này theo quan điểm của nhu cầu hiện đại và đáp ứng với nhu cầu đó.
Tôi đã nêu ra phần nào về công việc được dự tính của nhóm thứ nhất theo khía cạnh tương tác viễn cảm (trong quyển “Telepathy and the Etheric Vehicle”). Phương pháp giao tiếp giữa các Thành Viên của Thánh Đoàn, sau rốt, phải được thể hiện trên cõi trần và đây là một trong các nhiệm vụ của nhóm. Có thể là có ích cho bạn nếu tôi vạch ra rõ ràng hơn một chút mục tiêu của các nhóm giống mới là gì, bằng các thuật ngữ nói về văn minh và văn hoá trong kỷ nguyên mới, ngõ hầu các kết quả thực tiễn có thể được hình dung một cách rõ ràng và một số lý tưởng mới xuất hiện về tính chất của trật tự mới trên thế giới sắp đến. Nhóm thứ hai, tức các nhà quan sát lão luyện, sẽ khai mở kỷ nguyên của ánh sáng và tự do kiềm chế (free control) cõi cảm dục, với tính chất của nó là thoát khỏi ảo tưởng và ảo cảm. Tự do này sẽ có được khi việc “quan sát đúng” (“right observation”) thay thế cho cái nhìn bị xáo trộn hiện nay, ảo cảm sẽ bị xua tan nhờ việc “định hướng đúng” ánh sáng của linh hồn khắp cõi ảo tưởng. Kỷ Nguyên Bảo Bình sẽ có ưu thế là kỷ nguyên tổng hợp và là kỷ nguyên ánh sáng.
Nhóm thứ ba đưa ra sự thôi thúc ban đầu “vào tận nhật quang” (“into the light of day”) và sẽ đưa thế giới vật chất vào tình trạng mà “việc hàn gắn các quốc gia qua việc mọc lên mặt trời công chính” có thể xảy ra, bởi các định luật chữa trị (vốn là căn bản và nền tảng) có thể được áp dụng và thể hiện trong mọi lãnh vực (departments) của sự sống trên các phân cảnh biểu hiện ở ngoài – vì bệnh tật chỉ có trong cõi hiện tượng (world ofphenomena) mà thôi.
Đối với sự giao tiếp viễn cảm giữa các thành viên của Thánh Đoàn: bên trong chính mình, Thánh Đoàn này tác động hoàn toàn thực tiễn trên cõi trí. Tất nhiên việc này cần thiết vì hai lý do:
- Các thành viên của Thánh Đoàn đã tự mình thoát khỏi các giới hạn của hoạt động bộ óc và ý thức não bộ. Do đó, trong Bản Ngã chủ yếu của họ và khi họ chọn như thế, họ có thể tiến hành cùng một lúc hai đường lối hoạt động khác nhau – cả hai đều thực sự quan trọng. Họ có thể theo đuổi các chí hướng bình thường của họ trên cõi trần (nếu hoạt động trong thể xác) và khi làm như thế, họ bị chi phối trong việc thi hành các hoạt động này bởi các giới hạn của bộ óc đối với ý thức thời gian và ý thức không gian. Nhưng họ cũng có thể hoạt động trên cõi trí với chitta hay là chất trí (mind stuff), và đồng thời có thể làm điều này khi họ bị chi phối và bị giới hạn bởi bộ máy xác thân của họ. Lúc bấy giờ họ hoàn toàn thoát khỏi bất cứ các giới hạn nào như các liên hệ về không gian bên trong thái dương hệ.
- Tập trung sự an trụ (polarisation) của họ ở trên cõi trí và họ hành động ở đó với tư cách các con của thể trí hay của manas. Cách thức giao tiếp bình thường của họ là qua trung gian của sự hiểu biết bằng viễn cảm. Đây là kỹ thuật bình thường của một trí tinh quân (manasaputra) thiêng liêng và tự do.
Đây là tất cả những gì có thể xảy ra khi một người đã tự an trụ vào linh hồn thức khi hoa sen chân ngã khai mở và vì vậy phương pháp hoạt động của thể trí là phương pháp liên hệ bằng thể trí hay viễn cảm (telepathy).
Trước đây tôi có nói với bạn rằng khi nhân loại ngày càng đạt được sự an trụ vào thể trí nhờ mãnh lực thu hút đang phát triển của nguyên khí trí tuệ, việc sử dụng ngôn ngữ để gợi ra ý tưởng giữa những kẻ ngang nhau hay để giao tiếp với những vị cao siêu hơn sẽ không được dùng đến (disuse). Việc đó sẽ tiếp tục được dùng đến khi tiếp xúc với quần chúng và những ai không hành động trên cõi trí. Khấn nguyện không phát thành tiếng (voiceless prayer), đạo tâm và lòng tôn sùng dường như có giá trị cao hơn là các cầu khẩn và các thỉnh nguyện phát ra thành tiếng. Chính ở giai đoạn này trong việc khai mở của nhân loại mà việc chuẩn bị cần phải làm, và các qui luật, các kỹ thuật và các tiến trình giao tiếp viễn cảm phải được làm cho rõ ràng sao cho chúng có thể được hiểu một cách sáng suốt và đúng theo lý thuyết. Phương pháp giao tiếp giữa các thành viên của Thánh Đoàn là một tiến trình thập phân và chỉ bằng sự đóng góp của mười nhóm (chín nhóm và nhóm tổng hợp thứ mười) thì phần đóng góp của họ trong tiến trình thể hiện (khi điều đó xảy ra trên thế giới) mới được hoàn tất.
Theo một vài khía cạnh, công việc của nhóm thứ hai (các Nhà Quan Sát Lão Luyện) lại cực kỳ khó nhọc, có lẽ còn khó nhọc hơn là công việc của bất cứ nhóm nào khác – ngoại trừ nhóm đang đảm trách công việc chính trị (political work). Trong lãnh vực sau này, công việc của cung một, cung Ý Chí hay Quyền Lực, đang bắt đầu xuất hiện, do đó mới có khó khăn lớn lao. Năng lượng đang thể hiện trong hoạt động chính trị thì chưa được hiểu rõ. Công việc của Trạng Thái Huỷ Diệt (Destroyer Aspect) đã được giữ một cách tương đối ở hậu cảnh và chỉ trong nửa thế kỷ qua, đã trở nên linh hoạt một cách rõ rệt. Điều này có thể xảy ra vì toàn thể thế giới, nói một cách thực tế, bị lôi cuốn vào và chỉ trong vùng hay lãnh vực tổng hợp mà cung một mới có thể tác động. Đây là một điểm cần ghi nhớ và cho đến nay là một điểm ít được hiểu rõ. Tôi tự hỏi không biết bạn có thể đánh giá được sự quan trọng của hai phát biểu liên quan đến cung một nằm trong đoạn ngắn này không? Tôi thường đưa ra cho bạn quá nhiều thông tin thực sự về những gì mà bạn vẫn không biết.
Nhóm thứ hai đang đấu tranh với ảo cảm. Các tiến trình tiến tới ánh sáng và mối liên hệ của các tiến trình đó với ảo cảm của nhóm và với ảo cảm của cá nhân, tạo thành một tương quan rất chặt chẽ. Sự giác ngộ đúng đắn – đó là một tên gọi khác hay khía cạnh của phương hướng đúng – sẽ chiếm chỗ của ảo cảm, và mục tiêu (xét về mặt cá nhân) của nhóm các đệ tử này là đưa “ánh sáng vào những chỗ tối tăm” và đưa sự giác ngộ vào các kiếp sống của họ. Ở đây tôi không định bàn đến vấn đề ảo cảm. Tôi đã chú tâm nhiều đến vấn đề đó trong các giáo huấn dành cho tập thể rồi, (nơi quyển “Ảo Cảm: Một Vấn Đề Thế Gian”).
Nhiệm vụ của nhóm các đệ tử này được liên kết chặt chẽ với nhiệm vụ ở cõi cảm dục của Thánh Đoàn. Vào lúc này đây là việc xua tan ảo tưởng thế gian. Điều đó đã là vấn đề của nhóm từ thời Atlantis, và tột đỉnh của nỗ lực đó thì có sẵn và ngay trước mắt. Nó chiếm hình thức (vì mọi ảo tưởng đều chiếm hình thức này hay hình thức khác) của “ánh sáng tuôn đổ vào”, hiểu về mặt huyền linh. Đây là một ảo tưởng và đồng thời là một sự kiện tâm linh có ý nghĩa và trọng đại. Do đó, ngày hôm nay, trên cõi trần, chúng ta mới thấy nhiều ánh sáng xuất hiện khắp nơi; chúng ta có các biến cố đưa tới giác ngộ và một nỗ lực bền bĩ về phía những người hoạt động về tâm linh để soi sáng nhân loại, và rất nhiều cuộc hội thảo về phía các nhà giáo dục liên quan đến sự giác ngộ thuộc loại trí tuệ. Chủ đề then chốt của nỗ lực này là loại bỏ ảo cảm thế gian được Đức Christ đưa ra khi Ngài nói (theo gương của Hermes, Đấng khai mở tiến trình giác ngộ cho nhân loại chúng ta, chủng tộc Aryan), ”Ta là Ánh Sáng của Thế Gian”.
Các đệ tử phải nghiên cứu ý nghĩa của sự giác ngộ, tiếp nhận được trong lúc thiền định, và sự cần thiết để hoạt động trong ánh sáng với tư cách một nhóm để xua tan ảo cảm. Đức Hermes và Đức Christ đã đảm trách công việc soi sáng cõi cảm dục này và thường xuyên bận tâm với nhiệm vụ này. Công việc của các Ngài trong kỷ nguyên mới cần được trợ giúp bằng hoạt động mạnh mẽ của một vài nhóm mà nhóm thứ hai này là một. Sau này, khi nền văn minh mới gần xuất hiện, các nhóm này tất cả đều sẽ có hai người chủ chốt (key persons), hay các điểm năng lượng mà qua đó các thần lực của Đức Hermes và ý chí của Đức Christ sẽ được tập trung, và qua đó các Ngài sẽ có thể hành động. Khi điều này xảy ra, nhiệm vụ xua tan ảo cảm thế gian sẽ được nhanh chóng hơn ngày nay nhiều. Đồng thời, các nhóm đệ tử có thể “bảo dưỡng và che đậy”, như vậy tránh được khó khăn cho mầm mống hay hạt giống của văn hoá và văn minh thuộc Kỷ Nguyên Bảo Bình mới theo đường lối tự do riêng biệt này. Tôi lặp lại lần nữa là họ phải làm điều này cùng với các nhóm khác, hoạt động theo các đường lối giống nhau, hoặc hữu ý hoặc vô tình.
Nhiệm vụ thứ hai của nhóm đệ tử này là hành động như một nhịp cầu cho các mãnh lực đang tìm cách biểu hiện ở cõi dĩ thái và đang toả ra từ các phân cảnh linh hồn, xuyên qua thể trí. Trước kia trong bộ “Luận Về Huyền Linh Thuật” tôi có viết rằng cõi cảm dục chính là một ảo tưởng. Khi nhiệm vụ đầu tiên của các nhóm đang hoạt động với ảo cảm thế gian được hoàn thành, điều này sẽ trở nên rõ rệt. Cho đến nay tôi không thể đưa ra cho bạn một ý tưởng thực sự nào của ý nghĩa ẩn bên dưới, vì tất cả các bạn đều đang làm việc theo một mức độ nào đó trên cõi ảo tưởng và cõi ảo cảm, và đối với bạn cõi ảo tưởng đang hiện hữu và cõi cảm dục đối với bạn là một sự thực (fact). Nhưng về điều này tôi có thể nói: đối với các thành viên được điểm đạo của Đại Huyền Môn (Great White Lodge) thì cõi cảm dục không có thật. Các Ngài không hoạt động trên phân cảnh ý thức đó, vì cõi cảm dục dứt khoát là một trạng thái ý thức, cho dù (theo góc độ tâm linh) nó không thực sự tồn tại. Nó tượng trưng cho công việc sáng tạo vĩ đại của nhân loại qua các thời đại, và là sản phẩm của trí tưởng tượng “giả tạo” và công trình (work) của bản chất tâm thông thấp. Khí cụ của công việc sáng tạo của cõi đó là bí huyệt nhật tùng và bí huyệt xương mông. Khi năng lượng tìm cách xuất hiện qua hai bí huyệt này, năng lượng đó bị biến đổi và đưa vào cổ họng và tim ở người tiến hoá, lúc đó người tiến hoá nhất trong nhân loại sẽ biết được rằng cõi cảm dục không có thực; bấy giờ họ sẽ hoạt động mà không còn chút ấn tượng/dấu vết gì của cõi đó và công việc của người thoát khỏi ngục tù do chính mình tạo ra sẽ tiến triển một cách nhanh chóng. Trong khi chờ đợi một nhóm các đệ tử đang được thành lập từ từ (mà nhóm thứ hai này là một phần và trong đó nhóm có thể đóng một vai trò quan trọng và chiếm một vị thế chủ chốt) có thể dần dần trợ giúp trong việc xua tan đại ảo tưởng và có thể cũng hành động như một nhóm trung gian để cho những ai tự mình thoát khỏi ảo cảm có thể tìm được con đường đi vào vùng xoáy của ảnh hưởng do nhóm tạo ra, vốn được phép hoạt động như vậy. Bấy giờ ba điều có thể xảy ra:
- Những ai tiến gần đến nhóm này sẽ thấy các nỗ lực của mình muốn hoạt động mà không bị ảnh hưởng của ảo cảm đều được trợ giúp phần lớn và được làm cho mạnh thêm bằng sự trợ giúp của nhóm.
- Họ sẽ làm tăng thêm số người hoạt động như thế và hối thúc tiến trình xua tan ảo cảm.
- Bấy giờ Thánh Đoàn sẽ có thể hoạt động chặt chẽ hơn trên cõi trần và đến gần với nhân loại hơn.
Nhiệm vụ thứ ba của nhóm thứ hai này nằm trong một tương lai xa xăm hơn nhiều. Thánh Đoàn tất nhiên là có một bộ phận gồm những người hoạt động mà nhiệm vụ chính là làm việc một mình trong thế giới ảo tưởng và với chất cảm dục. Bộ phận này xuất hiện vào thời Atlantis khi cuộc tranh cãi lớn xảy ra giữa những người tượng trưng cho ý thức hay khía cạnh linh hồn của thiên tính, với những người tương tự như thế, tiêu biểu cho khía cạnh vật chất của thiên tính. Nói một cách bóng bẩy, các con đường phía tả và phía hữu đều xuất hiện; bạch đạo và hắc đạo đều xung khắc với nhau và các cặp đối hợp (luôn luôn có trong cõi biểu lộ) trở thành những yếu tố linh hoạt trong ý thức của nhân loại tiến hoá. Cuộc đấu tranh cho sự phân biện đã mở ra và nhân loại trở nên linh hoạt trên lãnh vực của bãi chiến trường (kurukshetra). Khi nào không có sự đáp ứng hữu thức với một tình trạng và không có sự hiểu biết được ghi lại, thì không có vấn đề trách nhiệm, xét về mặt linh hồn. Vào thời Atlantis, tình trạng này được khơi dậy và đó là vấn đề mà nhân loại ngày nay đang đối phó; do đó nhiệm vụ của Thánh Đoàn là giải thoát linh hồn con người ra khỏi ảo cảm bao quanh để cho họ được giải thoát. Tột đỉnh của vấn đề và sự bàn cải được khai mở vào thời đó, hiện giờ ở nơi chúng ta.
Do đó, hiện nay chức năng thứ ba của nhóm có thể hiểu được, và sau rốt hướng nỗ lực này của Thánh Đoàn có thể tìm được biểu hiện thích hợp trên cõi trần.
Do việc phân tích cơ hội nói trên, điều hiển nhiên là làm thế nào các nhóm có một vị trí rõ rệt trong các kế hoạch của Thánh Đoàn. Bằng cách phát triển sự nhạy bén tâm linh và thoát khỏi ảo cảm, các đệ tử, vốn là thành viên của các nhóm này, có thể nâng cao ý thức nhân loại và đưa đến sự giác ngộ. Cần nên nhớ rằng chính sự linh hứng mới là mục tiêu của mọi công tác viễn cảm đích thực, và sự giác ngộ mới là phần thưởng của nỗ lực và là dụng cụ thực sự để xua tan ảo cảm thế gian. Như thế các nhóm này có thể nuôi dưỡng mầm mống của văn hoá tương lai, cũng tác động như các đơn vị trung gian, và thể hiện một vài hoạt động thuộc phạm vi của Thánh Đoàn hành tinh – ước muốn lớn lao kế tiếp của các Thành Viên của Thánh Đoàn này.
Bây giờ trở lại công việc của nhóm thứ ba, chúng tôi thấy chính mình liên hệ với công việc của các nhà chữa trị bằng từ điện của thế giới. Điều này đã được bàn đến ở nơi khác (Bộ “Chữa trị Huyền Linh”). Ở đây tôi sẽ đề cập đến một hay hai điểm đáng quan tâm nhất, và đề cập đến ba cơ hội. Điều đáng ghi nhận là công việc của nhóm này có lẽ là công việc khó khăn nhất cần hoàn thành, mặc dù theo một khía cạnh khác, nó còn dễ hơn là nhiệm vụ của đa số các nhóm khác, bởi vì ý thức của phần lớn nhân loại vượt trội hơn trên cõi ảo tưởng, và do đó, như Cổ Luận nói:
“Các Ngài đang làm việc để mang lại ánh sáng nhưng lại bị bao quanh bởi ảo lực của các giác quan, tác động từ mức độ hiện tại và không cần chuyển động ra hay vào, lên hay xuống. Các Ngài chỉ trụ lại”.
Các nhà chữa trị của thế gian trên cõi trần phải làm việc dựa vào cõi đó, nhiệm vụ của họ là nhiệm vụ giúp phục hồi năng lượng của sự sống, toả ra từ cõi linh hồn xuyên qua thể trí, nhưng loại trừ thể tình cảm. Các năng lượng này phải được đưa vào ý thức hồng trần và từ cõi hồng trần, thi hành công việc cần thiết với sức thu hút của họ. Nếu thành công, công việc của nhà chữa trị bao gồm :
- Phục hồi năng lượng chữa trị thiêng liêng.
- Loại trừ cõi cảm dục và do đó loại trừ ảo tưởng.
- Sử dụng năng lượng chữa trị với ý thức khơi hoạt đầy đủ trên cõi trần.
Đa số các nhà chữa trị trên thế giới đều hành động như sau:
- Với tư cách nhà chữa trị thuần tuý vật chất, liên quan với các sinh lực của thể xác, và với ý thức riêng của họ được an trụ trong thể dĩ thái.
- Với tư cách các nhà tâm thông cõi cảm dục, có ý thức an trụ vào cõi cảm dục, sử dụng thể cảm dục và hoạt động trong và với ảo cảm cùng ảo tưởng. Hậu quả công việc của họ, nếu thành công (tôi muốn bạn chú ý chữ “nếu” (“if”) vì tôi bàn đến ý tưởng với sự lâu dài tương đối) có thể là một trong hai điều:
a. Họ có thể chữa trị các bệnh thuộc xác thân nơi người bệnh vốn có bản chất thế nào mà ham muốn bên trong thuộc thể cảm dục (và do đó là ham muốn thấp kém) đã dẫn tới kết quả thành bệnh của thể xác, bị hứng chịu trong một số trạng thái hay cơ quan của xác thân.
b. Họ có thể làm mạnh thêm hiệu quả của ảo tưởng ham muốn trong ý thức bộ óc xác thân và gây nên một sự tăng gia mạnh mẽ các năng lượng linh hoạt đến nỗi có thể xảy ra tử vong trước đó rất lâu. Đây là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Tuy nhiên cái chết là một cách chữa trị, hãy nhớ điều này.
Dưới hai hạng này là đa số các nhà chữa trị trên thế giới – đôi khi có kết quả tốt, nhưng thường là làm hại, cho dù không hiểu được điều đó, và cho dù (vì trường hợp này thường xảy ra) có hảo ý. Tuy nhiên có ba loại nhà chữa trị khác phải thêm vào hai loại trên:
3. Các nhà chữa trị tâm thần (mental healers) theo ý nghĩa đích thực của từ ngữ đó. Hầu hết các nhà chữa trị tâm thần đều tự hào quá mức và hoạt động không theo trí họ chút nào. Họ có nhiều lý thuyết về tâm thần và phương pháp cảm dục. Dục vọng là mãnh lực thúc đẩy chớ không phải sự thôi thúc của trí óc. Nhà chữa trị tâm thần chân chính chỉ mang lại kết quả khi người ấy biết được ít nhiều về sự giác ngộ theo ý nghĩa chuyên môn và theo lý thuyết và biết được ít nhiều về sức mạnh của ánh sáng để xua tan ảo tưởng. Bệnh không phải là một ảo tưởng; dứt khoát đó là hậu quả của một nguyên nhân thực sự theo quan điểm của thường nhân. Khi các nhà chữa trị có thể làm việc bằng thể trí, là họ bàn đến nguyên nhân của bệnh chớ không bàn đến hậu quả.
4. Các nhà chữa trị này thiết lập được sự giao tiếp với linh hồn và hoạt động qua linh hồn con người, do đó cho phép họ:
a. Trụ lại trong bản thể tinh thần (spiritual being)
b. Hành động thoát khỏi ảo tưởng.
c. Có được phối cảnh đích thực trên cõi trần.
d. Phối kết phàm ngã và linh hồn để cho ý chí của con người nội tâm tinh thần có thể thể hiện trên cõi trần.
- Những ai có thể hoạt động (theo dự kiến thì sau rốt, nhóm thứ ba này sẽ làm) một cách rõ rệt như là các tiền đồn của ý thức của Huyền Giai các Chân Sư. Công việc này sẽ được thực hiện trong việc thành lập nhóm và với một cố gắng tổng hợp hợp nhất. Do đó, hiệu quả cá nhân của các nhà chữa trị như thế là:
a. Phối hợp phàm ngã của người bệnh. Chính các nhà chữa trị phối hợp.
b. Mang lại sự tiếp xúc với linh hồn, về phần bệnh nhân. Chính họ hết sức thiết yếu trong việc tiếp xúc này. c. Trộn lẫn và phối hợp phàm ngã với linh hồn, như thế, tạo ra một vận cụ để phân phối năng lượng tinh thần. Chính các nhà chữa trị phối hợp như thế.
c. Hiểu rõ và sử dụng các định luật chữa trị tinh thần đích thực nhờ hoạt động sáng suốt trên cõi trí, nhờ thoát khỏi ảo cảm, và nhờ việc sử dụng đúng mãnh lực mà vận cụ của linh hồn (tức là phàm ngã) trở nên có sức thu hút mãnh liệt.
Tôi xin nhắc bạn rằng nỗ lực như thế trong các giai đoạn đầu (và các giai đoạn này cũng là các giai đoạn hiện nay) tất nhiên có kết quả trong việc phát triển một tinh thần khẩn trương nhờ nỗ lực sáng suốt được tạo ra và sự nhận thức bằng phân biện đối với ảo cảm trong nhiều trường hợp, bởi vì chỉ nhờ một cố gắng như thế mà cuối cùng mới có thể đạt đến việc phân tích đúng và không còn sự chỉ trích nữa. Trong lúc này, những kẻ đang luyện tập như thế đều thường gặp khó khăn và là một vấn đề cả cho chính họ lẫn cho bạn bè và những kẻ cộng tác với họ. Nhưng giai đoạn này chỉ tạm thời và đưa đến một mối liên hệ bền bĩ hơn và đến sự xuất hiện của khoen nối và tính thương có sức thu hút đích thực có tính cách chữa trị, nâng cao và kích thích tất cả những gì mà nó có thể tiếp xúc được.
Trong Kỷ Nguyên Bảo Bình sắp đến, chúng ta sẽ thấy nhân loại tạo ra một nền văn hoá vốn bén nhạy với các giá trị tâm linh cao siêu hơn và tốt đẹp hơn, một nền văn minh vốn thoát khỏi ảo cảm và thoát khỏi nhiều ảo tưởng mà ngày nay đang tác động tới giống dân Aryan, và sự sống của nhân loại vốn sẽ được biểu hiện dưới các hình thức này sẽ lấp được lỗ hổng đang có hiện nay; cuộc sống đó sẽ thoát khỏi những gì mà hiện giờ chúng ta biết như là bệnh tật thuộc loại tệ hại nhất, mặc dù sự tử vong và một số hình thức suy sụp về thể xác sau rốt có thể kết thúc bằng cái chết, dĩ nhiên, vẫn còn xảy ra. Việc vượt qua được cái chết thì không phụ thuộc vào việc loại bỏ các bệnh thể xác, mà phụ thuộc vào việc thiết lập sự liên tục ý thức đang chuyển từ cõi trần của kiếp sống đến sự sống nội tâm chưa biểu lộ (the inner subjective existence). Đối với tình trạng hiện tồn này, các nhóm như là nhóm thứ ba này có thể là kẻ bảo quản và do đó, công việc của họ là :
- Thiết lập tình trạng phát triển phàm ngã, việc này sẽ đưa đến cách sống có sức thu hút trên cõi trần.
- Nghiên cứu các định luật của Sự Sống, đó là các định luật về sức khoẻ và về mối liên hệ đúng đắn.
- Phát triển sự liên tục ý thức đó để mở ra “cánh cửa của sự sống và xua tan nỗi e sợ về cái đã biết và về những gì sẽ tan biến”.
Theo quan điểm đối với công việc của các nhà chữa trị thế giới, phát biểu trên là một phát biểu hợp lúc. Họ đối phó với điều này như là cái nhân hay là một trong các mầm mống của nền văn minh mới và văn hoá sau này. Nó tượng trưng cho mục đích của mọi công việc của họ và sự đóng góp của họ vào công việc hợp nhất của các nhóm.
Tương tự như thế, họ có thể lấp cái lỗ hổng hiện có trong ý thức nhân loại giữa:
- Sự sống và sự chết.
2. Đau ốm và khoẻ mạnh. Điều này ở giữa:
a. Yếu đuối về thể chất và mạnh mẽ về nội tâm, trường hợp này xảy ra với một số ít – rất ít – người tiến hoá, hay là các đệ tử trên thế gian và những người tìm đạo cao niên.
b. Khoẻ mạnh về thể chất và yếu đuối về tâm linh, đôi khi xảy ra trường hợp này, nhưng cực kỳ hiếm có.
c. Yếu đuối về thể chất, yếu đuối về tâm thần, có linh hồn ám trợ (overshadowing soul). Ngày nay thường xảy ra tình trạng này.
3. Cõi hồng trần và thế giới linh hồn, bởi vì sự phát triển một khí cụ lành mạnh và việc làm tan những nguyên nhân này vốn xảy ra theo các hiệu quả trong thể xác dưới hình thức bệnh tật và tác động như là các rào chắn đối với dòng lưu nhập của năng lượng linh hồn và là ngõ vào của linh hồn thức thành hoạt động của bộ óc.
Ngày nay khi điều đó xảy ra thì công việc nối liền này thường chỉ là một sự kiện may mắn nhưng là sự kiện xảy ra tình cờ và không phải là kết quả của việc nối liền được cố ý sắp xếp. Nhưng ý định của Thánh Đoàn là các nhóm đó sẽ được tạo ra sau này, và ngày nay đang ở trong tiến trình thành lập (bao gồm nhóm thứ ba này của tôi) có thể trợ giúp trong tiến trình này, nếu đó là ý muốn của các thành viên.
Sau rốt, mọi đệ tử điểm đạo đều là một nhà chữa trị từ điện. Đây là một sự thật (fact). Mặc dầu mỗi vị trong thành viên của Thánh Đoàn đều có các nhiệm vụ ấn định thích hợp và các hoạt động của các Ngài cũng đã được sắp xếp (tuỳ vào cung, tuỳ giống dân và tuỳ sự cống hiến) có một hoạt động mà các Ngài đóng góp chung, đó là mãnh lực chữa trị. Khả năng của các Ngài là hoạt động với tư cách các nhà chữa trị từ điển, thể hiện theo nhiều cách khác nhau, chủ yếu là trong lãnh vực có các điều chỉnh tâm lý và các tháo gỡ tâm linh, và – chỉ một cách ngẫu nhiên và theo kết quả của hai hoạt động nói trên – trong các tiến trình chữa trị xác thân. Do các điểm nói trên, bạn sẽ nhận thức rằng công việc chũa trị được thực hiện bởi các thành viên được điểm đạo của Đại Huyền Môn gồm có ba mặt – về mặt tâm lý (psychological), diễn ra trong linh hồn; về mặt tâm linh (psychic), giải phóng bản chất tâm thông thấp ra khỏi ảo tưởng sao cho cái tâm hay linh hồn (the psyche or soul) có thể chế ngự đầy đủ; về mặt xác thân (physical), theo kết quả của các điều chỉnh tâm linh và tâm lý bên trong.
Hoạt động chữa trị theo ba mặt này được dự trù trở thành mục tiêu của mọi nhóm đang hoạt động khi nhóm thứ ba này (tức là nhà chữa trị từ điển) bắt đầu hoạt động; như vậy sẽ đưa tới sự xuất hiện cho nỗ lực của Thánh Đoàn thành hoạt động bên ngoài. Hỡi huynh đệ, như vậy bạn sẽ ghi nhận là công việc của ba nhóm đầu tiên chỉ được bàn và xem như là tạo thành một đơn vị, tạo ra một nỗ lực tổng hợp trong ba cõi thấp và hướng từ cõi linh hồn đến cõi biểu hiện bên ngoài.
***
Tổng hợp sách trong Thư viện trái đất
- SỰ HIỂN LỘ CỦA THÁNH ĐOÀN ( Đang cập nhật)
- SỰ HIỂN LỘ CỦA THÁNH ĐOÀN – MỤC LỤC
- SỰ HIỂN LỘ CỦA THÁNH ĐOÀN – Tiết Hai: Minh Họa Chung Về Thế Giới (Tiếp theo)
- SỰ HIỂN LỘ CỦA THÁNH ĐOÀN – Tiết Hai: Minh Họa Chung Về Thế Giới
- SỰ HIỂN LỘ CỦA THÁNH ĐOÀN – Tiết Một: Các nhận xét dẫn nhập – Giai đoạn chuyển tiếp (Tiếp Theo)
- SỰ HIỂN LỘ CỦA THÁNH ĐOÀN – Tiết Một: Các nhận xét dẫn nhập – Giai đoạn chuyển tiếp